Khách hàng đang giao dịch tại Vietinbank. (Nguồn: Internet).
Mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 2010 là 25% trong khi sáu tháng đầu năm chỉ đạt 10,52%. Đây là áp lực lớn cho các ngân hàng, khi nhu cầu vốn của doanh nghiệp trong hai quý cuối năm được dự báo sẽ không tăng trưởng mạnh như năm trước. Để giải tỏa áp lực, các ngân hàng đã đẩy mạnh tín dụng cho xuất khẩu.
Dành nhiều ưu đãi cho xuất khẩu
Một số ngân hàng cho biết, cái khó hiện nay là chưa thể cắt giảm mạnh lãi suất đầu vào, trong khi doanh nghiệp muốn được vay với chi phí thấp nhất. Theo Ngân hàng Nhà nước, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay VND từ đầu tháng 4/2010 đã giảm, tuy mức giảm chưa mạnh vì tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng dư nợ tín dụng. Hiện lãi suất cho vay ngắn hạn phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 12,5-13%/năm, cho vay trung và dài hạn khoảng 14%/năm (tương ứng với lãi suất cùng kỳ năm 2006, 2007).
Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp, lãi suất vay 13-14%/năm vẫn còn cao vì khả năng sinh lời trong hoạt động sản xuất, kinh doanh lúc này chưa hẳn đã bù được lãi vay.
Để phát triển tín dụng và cũng là để thực hiện theo chủ trương của Chính phủ, nhiều ngân hàng đã cắt giảm lãi suất cho vay thỏa thuận xuống mức thấp nhất còn 11%-12,5%/năm dành cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Bùng nổ đầu tiên là Vietinbank, ngân hàng này đã quyết định dành 30.000 tỷ đồng cho các doanh nghiệp xuất khẩu vay chỉ với lãi suất 11%/năm, giảm 1,5% so với lãi vay thông thường mà VietinBank đang áp dụng cho khách hàng. Bên cạnh đó, chương trình còn có các chính sách hỗ trợ khác về sản phẩm, về cung cấp dịch vụ trọn gói và tư vấn…
Ông Phạm Huy Hùng, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vietinbank cho biết, hiện nay các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xuất khẩu là đối tượng khách hàng được các ngân hàng quan tâm dành vốn giá rẻ. Vietinbank cũng kỳ vọng vào tín dụng xuất khẩu vì nhu cầu vốn sẽ tăng khi lãi suất giảm xuống và hiện cầu vốn trung, dài hạn vẫn chưa có dấu hiệu tăng.
Ưu đãi trong phạm vi hẹp hơn, nhưng cũng được đánh giá là một trong những ngân hàng tiên phong trong việc dành ưu đãi cho doanh nghiệp xuất khẩu, Sacombank cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Campuchia được hưởng lãi suất vay VND tối thiểu 12%/năm. Đồng thời, khách hàng được hỗ trợ giảm 30% phí chuyển tiền từ Việt Nam sang Campuchia kể từ nay đến hết 31/12/2010. Các đối tác nhập khẩu của các doanh nghiệp này tại Campuchia cũng được hưởng lãi suất vay USD tối thiểu 8%/năm (hiện nay, mức lãi suất vay USD trung bình tại Campuchia là từ 10-12%/năm).
Còn Eximbank tiếp tục đẩy mạnh chương trình “Tài trợ xuất khẩu bằng VND” với lãi suất được áp dụng cho các nhà xuất khẩu kể từ giữa tháng 7 là 12%/năm. Ngân hàng này dự kiến sẽ dành khoảng 2.000 tỷ đồng cho vay chương trình này. Với mục tiêu tín dụng trong năm nay tăng khoảng 50% so với năm trước, Eximbank kỳ vọng sẽ hoàn tất trước khi tài khóa 2010 kết thúc, nhằm đạt được kế hoạch lợi nhuận 2.200 tỷ đồng.
HDBank thì cho vay tín chấp xuất khẩu với lãi suất 12%/năm. Ngân hàng này còn chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất đối với thư tín dụng (L/C) trả ngay với mức chiết khấu đến 95% giá trị bộ chứng từ. Tổng hạn mức mà HDBank tài trợ dành cho khách hàng xuất khẩu là 500 tỷ đồng.
Kỳ vọng vào tăng trưởng tín dụng
Đánh giá về tín dụng xuất khẩu nói riêng, tăng trưởng dư nợ tín dụng trong những tháng còn lại năm 2010 nói chung, một cán bộ trong ngành ngân hàng cho rằng, tín dụng khó tăng trưởng đột biến thời gian còn lại của năm nay. Nguyên nhân của việc tăng trưởng tín dụng chậm chạp này là do các doanh nghiệp đang bị "kẹt" đầu ra. Thống kê cho thấy, đến thời điểm 30/6/2010, có đến 1/6 lượng hàng công nghiệp tồn kho, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm ngoái nên trước mắt, khu vực sản xuất - kinh doanh khó hấp thụ được thêm lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, dù lãi suất đã giảm.
Bên cạnh đó, do thị trường thế giới đang bị biến động trước tác động của cuộc khủng hoảng nợ châu Âu, mặc dù các ngân hàng đã nỗ lực để dành ưu đãi tốt nhất cho doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu, nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn ngại vay. Hơn nữa, nguồn vốn cho vay của các ngân hàng chủ yếu mang tính chất ngắn hạn để mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân viên, chứ không phải để mua máy móc, thiết bị. Còn đối với các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư dài hạn, mức lãi suất hiện nay vẫn là một áp lực.
Mặt khác, theo lý giải của các ngân hàng, dư nợ khó tăng một phần cũng do nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn khó đáp ứng các điều kiện cho vay của ngân hàng, vì nợ thuế, nợ quá hạn, trình độ quản lý không cao… Do đó, dù các ngân hàng rất muốn mở rộng quy mô cho vay cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Là đơn vị chuyên về xuất khẩu mặt hàng nông sản cà phê, nhưng Tập đoàn Thái Hòa vẫn đang phải đi vay ngân hàng với lãi suất 14%, thậm chí 15%/năm. Ông chủ doanh nghiệp này phân trần, dù đơn vị nằm trong diện ưu tiên: Xuất khẩu và hàng nông sản nhưng do không đáp ứng đủ được các điều kiện của ngân hàng nên chưa thể tiếp cận được với lãi suất 12%/năm.
Doanh nghiệp đưa ra ví dụ, một số ngân hàng quy định, các doanh nghiệp tham gia chương trình ưu đãi cần đáp ứng đủ các điều kiện như: Doanh nghiệp/người điều hành của doanh nghiệp phải có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh hàng xuất khẩu từ 2 năm trở lên, có cách thức quản lý bán hàng, thu hối tiền xuất khẩu tốt; có hợp đồng xuất khẩu thuộc phương án vay vốn, trong đó thỏa thuận thanh toán bằng ngọai tệ qua tài khoản của khách hàng tại ngân hàng (ngoại trừ vay chiết khấu). Đồng thời khách hàng phải có cam kết thanh toán toàn bộ hàng xuất khẩu; bán toàn bộ ngoại tệ thu được từ hợp đồng xuất khẩu đã vay vốn chương trình cho ngân hàng.
Nhiều doanh nghiệp cho rằng, các ngân hàng đồng thuận hạ lãi suất là tín hiệu mừng, nhưng niềm vui thì chưa đến với đa số các doanh nghiệp. Vì mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tiêu thụ được sản phẩm với sức cạnh tranh cao. Nhưng hiện tại so với mặt bằng chung thì các doanh nghiệp của Việt Nam vẫn phải chịu lép vế rất nhiều so với doanh nghiệp nước ngoài chỉ xét riêng về chi phí tài chính.
Theo các chuyên gia kinh tế, xét cho cùng thì các ngân hàng cũng là doanh nghiệp, nghĩa là họ phải cân đối được lợi nhuận thì mới cho vay ra. Trong lúc này, nguồn vốn huy động vẫn chưa thực sự dồi dào nên ngân hàng khó có thể đáp ứng hết nhu cầu khát vốn của doanh nghiệp là điều dễ hiểu. Tình hình kinh tế vĩ mô được đánh giá là đang diễn biến tốt dần lên, nhưng phải đến khi các chỉ số vĩ mô thực sự ổn định thì luồng vốn sẽ mới được khơi thông./.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Hơn 1 tháng kể từ ngày gói tín dụng 30.000 tỷ đồng có hiệu lực (ngày 1/6) đến nay, số doanh nghiệp (DN) được vay ngày một nhiều, còn người dân chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhiều chuyên gia cho rằng, ngân hàng (NH) đang lợi dụng chính sách dành cho người dân để cứu DN.
Gần đây, những Cty cho vay vốn xuất hiện nhan nhản trên mạng. Lấy mác nhân viên ngân hàng, mỗi ngày những Cty tài chính “ma” này có thể lừa kiếm vài chục triệu đồng trước mặt người cần tiền gấp mà họ không hề biết.
Lại xảy ra khiếu nại giữa người rút tiền từ ATM với ngân hàng (NH) nhưng có tình tiết mới, đó là người rút tiền ngỡ máy hỏng nên đã rời khỏi buồng máy ATM, trong khi máy vẫn làm việc, trả tiền ra và người rút tiền kế tiếp nhanh tay hưởng lợi.
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cho rằng họ rất cần vốn để thu mua nguyên liệu nhưng rất khó tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, nên mất cơ hội kinh doanh
Ngoài quyền lợi được bảo vệ, tích lũy về tài chính khi mua những sản phẩm thuộc dòng bảo hiểm liên kết chung, khách hàng còn có thể chủ động lên kế hoạch đóng phí bảo hiểm theo khả năng tài chính của mình…
Trong những tháng cuối năm, các ngân hàng sẽ phải tập trung vào tăng trưởng tín dụng bằng VND, vì hạn mức tăng dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ gần như đã hết.
Ngân hàng Techcombank và Công ty CP Đầu tư Tổng hợp Hà Nội (Hanic) vừa đạt được thỏa thuận về việc tài trợ tín dụng cho khách hàng mua căn hộ tòa nhà CT1 trong dự án The Pride do Hanic phân phối độc quyền.
Các nhà quản lý tại Mỹ vừa tiếp nhận thêm 7 ngân hàng nhỏ, nâng tổng số ngân hàng của Mỹ bị phá sản từ đầu năm tới nay lên 103 ngân hàng. Tốc độ phá sản của các ngân hàng Mỹ năm nay tăng nhanh hơn nhiều so với năm ngoái. Cùng thời điểm này năm ngoái số ngân hàng Mỹ phá sản chỉ là 64 ngân hàng.
Ngày 6-8, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản thông báo kết luận thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật tại Kho bạc Nhà nước Việt Nam, qua đó phát hiện nhiều sai phạm trong điều tiết thu ngân sách, tạm ứng vốn, áp dụng lãi suất tiền gửi...
Thanh khoản hệ thống dồi dào, thị trường ngoại hối ổn định, tăng trưởng tín dụng vẫn bế tắc và nhiều khả năng khó đạt được mục tiêu đề ra.. là những nét chính của thị trường tiền tệ 7 tháng đầu năm.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cho biết, 6 tháng đầu năm 2014, toàn hệ thống tổ chức tín dụng mua 200 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho bạc Nhà nước, tương ứng khoảng 90% giá trị trái phiếu và tín phiếu do Chính phủ phát hành trong 6 tháng đầu năm.
“Để phát triển Phú Quốc trở thành một trung tâm dịch vụ du lịch lớn của cả nước và khu vực Đông Nam Á, cần thiết phải có những chính sách ưu đãi vượt trội”.
Đã đến lúc thế hệ Gen Y là động lực phát triển kinh tế chính của thế giới về tiêu dùng, đầu tư, tiết kiệm, dịch vụ tài chính…Do đó, họ sớm trở thành khách hàng quan trọng của ngân hàng bán lẻ.
TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam cho rằng, nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp nhà nước thì mức nợ công hiện nay đã vượt quá trần nguy hiểm rất nhiều.
“Khủng khiếp”, đó là chữ được TS. Trịnh Tiến Dũng, nguyên trợ lý Giám đốc Quốc gia - Trưởng ban Cải cách khu vực công UNDP Việt Nam, dùng để nói về độ lớn mức vay nợ của các doanh nghiệp nhà nước, có liên quan mật thiết đến nợ công.
Đó là ý kiến của các chuyên gia tại hội thảo 'Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: Cơ hội cho doanh nghiệp và người lao động' do Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Báo Diễn đàn doanh nghiệp tổ chức ngày 30.7
Bài viết này nhằm mục đích xác định các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam thông qua một phương pháp tiếp cận đơn giản. Mô hình ước lượng của chúng tôi sử dụng cơ sở lý thuyết về lạm phát cho một nền kinh tế nhỏ và mở. Bài viết cố gắng đưa một một vài gợi ý thận trọng cho chính sách kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện chính sách kích cầu.
Dù lạm phát vẫn đang ở mức thấp hơn so với năm 2008, nhưng tỷ lệ này tăng mạnh từ giữa năm 2009 và đang trở thành nguy cơ lớn nhất đối với Ấn Độ và Việt Nam. Trung Quốc; Singapore đã tuyên bố nâng giá đồng tiền; Ngân hàng Trung ương Ôxtrâylia, Ấn Độ, Malaixia, Philíppin và Việt Nam cũng đã lần lượt tăng lãi suất trong mấy tháng qua. Nỗi lo lạm phát gia tăng đang đè nặng lên các nền kinh tế Châu Á.
Với số nợ và mức thâm hụt thương mại quá lớn với Trung Quốc như hiện nay, Mỹ đã gia tăng áp lực bằng mọi cách buộc Trung quốc phải "thả lỏng" đồng nhân dân tệ. Ngày 15-4 sắp tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ phải đưa ra tuyên bố xem Trung Quốc có phải là “nước thao túng tiền tệ” hay không. Khả năng xảy ra cuộc chiến tranh tiền tệ mới là rất lớn, theo giới phân tích đây có thể là một phần của âm mưu toàn cầu nhằm thiết lập trật tự thế giới mới.
72% doanh nghiệp tư nhân VN căng thẳng vì vốn. Theo Standard Chartered đồng Việt Nam sẽ giảm giá hơn nữa trong thời gian tới và lạm phát của VN năm nay sẽ ở mức 8,9%. Cơ chế lãi suất trần không còn phù hợp với thực tế. Ngân hàng Nhà nước cần phải thay đổi cơ chế cũ bằng một cơ chế mới, nếu không sẽ gây ra sự đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế cũng như làm cho sự lưu thông tiền tệ có những tắc nghẽn và biến tướng khó kiểm soát.
Trong một thời gian ngắn, nhằm khơi thông nguồn cung cầu trên thị trường ngọai tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tục có 2 lần thay đổi tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la Mỹ. Nhiều chuyên gia dự báo sẽ có thêm một đợt thứ ba trong năm nay, nhưng chưa biết khi nào - có thể vào quý III năm 2010? Liệu có xuất hiện tâm lý bất an khi sở hữu đồng nội tệ ?
Năm 2009 là năm không yên ả đối với thị trường tài chính Việt Nam khi các lĩnh vực tiền tệ, ngoại hối, thị trường vốn đều biến động phức tạp và liệu thực tế này có tái hiện trong năm nay không lại là câu hỏi không dễ trả lời.
Quyết định của Ngân hàng Nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung dài hạn và thu thêm phí đối với các khoản vay ngắn hạn đang gây phản ứng trái nhiều từ các góc nhìn quan sát. Lãi suất thoả thuận đối với các khoản cho vay trung dài hạn của doanh nghiệp có nơi lên đến 18%/năm. Nhiều ý kiến cho rằng, mức này đã đến giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp.
Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế nhưng thị trường tiền tệ vẫn chưa bền vững, rủi ro cao. Chính phủ nên tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, không nên chạy theo giải pháp phá giá tiền đồng.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, thị trường nhà đất năm 2010 sẽ có nhiều áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và thách thức trước sự đổ bộ nhiều hơn của nhà đầu tư nước ngoài. Giới đầu tư cần có góc nhìn thực tế hơn và họ sẽ phải đau đầu đối diện với thách thức chọn sản phẩm nào và bán cho ai.
Do nhu cầu nhà đất còn rất lớn nên việc đầu tư vào thị trường bất động sản hằng năm lợi nhuận có thể đạt từ 25%-30%, nếu gặp đột biến có thể lên đến 150%.