Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Cải cách hệ thống ngân hàng: Tiến bộ nửa vời?

Hai năm sau vụ ngân hàng Lehman Brother bị phá sản, thất nghiệp ở Mỹ, châu Âu vẫn gia tăng và nhiều hoạt động kinh tế bị chững lại. Vậy công cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng thế giới đã tiến triển đến mức nào?
                     

Cách đây đúng hai năm, ngân hàng Mỹ Lehman Brother bị phá sản. Sự "sụp đổ hoàn toàn của mô hình tài chính" thế giới, vốn đã liên tục trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế, dẫn đến hậu quả là một số quốc gia có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Trong hai năm qua, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ đã tăng từ 6,2% lên tới gần 10%. Nợ của chính quyền liên bang đang từ  9. 600 tỷ USD tăng lên hơn 13.200 tỷ USD trong vòng chưa đầy hai năm. Thêm vào đó, 280 ngân hàng đã bị xóa tên.

Sự sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers ngày 15/9/2008 đã đẩy các sàn chứng khoán trên thế giới vào một cơn bão tài chính lớn chưa từng thấy. Trong những ngày kế tiếp, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU)  đã lập tức công bố kế hoạch bơm thêm hàng trăm tỷ USD  để cứu nguy ngành ngân hàng. Vào những tháng cuối nhiệm kỳ, Chính quyền Bush đã phải tung ra kế hoạch 700 tỷ USD làm con đê chặn cơn “đại hồng thủy”.

Chưa đầy một tháng sau, nước Pháp quyết định tiếp sức 360 tỷ Euro cho ngành ngân hàng. Tại Vương quốc Anh , chính quyền đã phải quốc hữu hóa ngân hàng Northern Rock. Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) hạ lãi suất chỉ đạo xuống mức tối đa nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tiếp tục cấp tín dụng cho tư nhân.

Tại châu Á, Nhật Bản và Trung Quốc cũng không thể đứng ngoài tâm bão.

Lãnh đạo của 20 nền kinh tế quan trọng nhất thế giới đã liên tục gặp nhau qua các Hội nghị thượng đỉnh G20 ở Washington, Luân Đôn, Pittsburgh, Toronto và sắp tới đây là tại Seoul để cải tổ hệ thống tài chính thế giới nhằm tránh tái diễn kịch bản đen tối hồi tháng 9/2008.

Trong 24 tháng vừa qua, công cuộc cải tổ tài chính của Âu-Mỹ đã có ba bước tiến quan trọng.

Sau một cuộc đọ sức gay go giữa ngành hành pháp và lập pháp, luật Dodd Frank đã được ban hành ở Mỹ. Luật trên buộc các ngân hàng Mỹ giới hạn hoạt động trong các lĩnh vực có nhiều rủi ro nhằm bảo vệ những người gửi tiền vào ngân hàng. Luật này hạn chế việc các ngân hàng đem tiền tiết kiệm đầu tư vào những sản phẩm tài chính có lãi cao, nhưng bị coi là nguy hiểm.

Luật tài chính Dodd Frank nhằm tăng cường vai trò của các cơ quan giám sát, phối hợp với các tổ chức trực thuộc chính phủ Mỹ, đặt một số ngân hàng dưới sự thanh tra của Cục dự trữ liên bang (FED), qui định các ngân hàng lớn phải hạn chế tham gia vào các quỹ đầu cơ và chỉ chiếm tối đa 3% cổ phiếu của các quỹ này.

Tương tự như Mỹ, châu Âu cũng chủ trương thành lập và tăng cường chức năng của các cơ quan giám sát tài chính trong việc kiểm tra các hoạt động của ngân hàng, các tập đoàn bảo hiểm và các quỹ đầu cơ. Cách đây hai tuần, châu Âu lại tiến thêm một bước nữa với Hiệp ước Basel III, chủ yếu yêu cầu giới ngân hàng tăng mức vốn dự trữ để đối phó khủng hoảng.

Tiến bộ nửa vời?

Theo giới chuyên gia trong ngành, những bước tiến nói trên là quan trọng nhưng không đầy đủ. Giáo sư Joseph Stiglitz, người từng đoạt giải thưởng Nobel kinh tế 2001, nhận xét: “Cộng đồng quốc tế, kể cả Mỹ, vẫn không thực sự ý thức được sai lầm của nguyên tắc ‘too big to fail’ (lớn đến mức không thể nào đổ vỡ). Hiệp ước Basel III về quản lý ngân hàng mà châu Âu vừa cho ra đời chỉ chú trọng vào việc bắt các cơ quan tài chính nâng vốn thay vì phải giới hạn bớt một vài hoạt động phụ của các ngân hàng. Đối với Mỹ, luật tài chính mới ít quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của những người gửi tiền vào ngân hàng”.

Cái nguyên tắc “too big to fail” mà Giáo sư Stiglitz vừa đề cập nguy hiểm ở chỗ là một ngân hàng càng lớn thì lại càng dễ “ỷ thế làm liều” vì biết rằng, trong mọi trường hợp, nhà nước cũng phải ra tay cứu giúp. Đó là điều đã xảy ra đối với ngân hàng Bearn Sterns hay với các quỹ quản lý bất động sản như Fannie Mae và Freddie Mac.

Sau khủng hoảng Mùa Thu 2008, nhiều ngân hàng nhỏ ở Mỹ đã sáp nhập hoạt động vào với các đối tác lớn hơn để tiếp tục tồn tại. Do vậy, theo giáo sư Stiglitz, qui mô của một số  ngân hàng Mỹ hiện còn lớn hơn so với thời kỳ tiền khủng hoảng. Vậy điều gì sẽ xảy ra, nếu một "ông khổng lồ" của ngành tài chính như JP Morgan Chase  hay Goldman Sachs “sa cơ lỡ bước” trong tương lai? Theo chuyên gia kinh tế của American Univerity tại Paris, giả thuyết chính phủ Mỹ bỏ rơi các tập đoàn ngân hàng này là điều không tưởng.

Ngành ngân hàng vẫn còn nhiều vấn đề

Hai năm sau khi được các chính phủ tài trợ, phần lớn các ngân hàng ở châu Âu và Mỹ đã bình phục. Bằng chứng rõ rệt nhất là trong cuộc “kiểm tra sức khỏe”  (stress test) của các ngân hàng châu Âu gần đây, chỉ có 7 trên tổng số 91 ngân hàng bị kiểm tra ” không vượt qua được các quy định đề ra. Đáng chú ý là  91 ngân hàng tham dự xét nghiệm năm nay đại diện cho 65 % các hoạt động tài chính ngân hàng của EU. Cuộc trắc nghiệm này nhằm xem xét khoản tài sản cố định trên thực tế của các ngân hàng có đủ sức để đương đầu với một cơn bão tài chính còn nghiêm trọng hơn so với vụ phá sản của Lehman Brothers hồi tháng 9/2008 hay không.

Tại châu Âu,  hai phần ba các hoạt động kinh tế hiện lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Ở Mỹ, tỷ lệ này là một phần ba. Trong hai năm qua, ngành ngân hàng đã tạm thời ổn đinh, nhưng theo giới quan sát, đây mới chỉ là một sự bình phục nửa chừng. Đến nay, vẫn còn trên 800 ngân hàng Mỹ có nguy cơ phá sản. Ở châu Âu, nhiều ngân hàng của Tây Ban Nha,  và thậm chí của Đức, cũng bị coi là có nguy cơ bị đổ vỡ.

Giáo sư Joseph Stiglitz khẳng định châu Âu và Mỹ chưa thoát khỏi khủng hoảng. Ông nhận định: “Chắc chắn là chúng ta chưa ra khỏi giai đoạn suy thoái. Về mặt kỹ thuật, người ta nói tới một nền kinh tế bị suy thoái khi GDP sụt giảm trong hai quý liên tiếp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy  kinh tế Mỹ đang bị chững lại, tỷ lệ thất nghiệp còn cao. Nhìn từ góc độ này, chúng ta chưa ra khỏi khủng hoảng. Về hậu quả của khủng hoảng, tất cả các cơ quan dự báo  đều ghi nhận là tỷ lệ tăng trưởng sẽ ‘yếu đi hẳn so với trước khi xảy ra vụ Lehman Brothers’, nhưng không ai có thể dự đoán được ‘sẽ yếu đến mức độ nào’. Về trường hợp của Mỹ, ngay cả những người lạc quan nhất cũng nhìn nhận rằng tăng trưởng kinh tế sẽ không đủ để tạo thêm việc làm cho những người mới gia nhập thị trường lao động”.

Dư âm của Lehman Brothers


Đối với nước Pháp, tai họa do Lehman Brothers đêm đến vẫn còn nhãn tiền và đang đè năng lên tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Pháp, thị trường lao động, cán cân chi thu của nhà nước và túi tiền của tư nhân.

Giới chuyên gia nói nhiều đến một sự phục hồi kinh tế, kể từ giữa 2009. Nhưng phần lớn dư luận vẫn cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vẫn chưa chấm dứt. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Pháp chỉ bằng 1/3 so với trước khi “sóng thần tài chính” xảy ra. Theo Viện thống kê quốc gia INSEE, tổng sản lượng của Pháp trong quý 2/2010 chỉ đạt trên 405 tỷ Euro, giảm  2,1% so với quý 2/2008, thời kỳ thịnh vượng nhất tiền khủng hoảng.

Nhưng nếu nhìn từ góc độ « tiềm năng phát triển », tức là tỷ lệ tăng trưởng thực sự so với vốn, nhân sự, và các phương tiện đã được huy động, thì sự tụt lùi không chỉ là 2,1% như vừa nêu, mà còn tai hại hơn rất nhiều.

Chênh lệch giữa thời kỳ "trước" và "sau" Lehman Brothers lên tới gần bốn điểm. Thiệt hại của khủng hoảng tài chính đối với nước Pháp ước tính lên tới 95 tỷ euros, tương đương với 5% GDP.

Đối với thị trường lao động, cái giá phải trả còn cao hơn nữa khi biết rằng đến cuối tháng 8 vừa qua, số người đăng ký tìm việc làm đã tăng 35% so với hồi tháng 03/2008. Đáng lo ngại hơn nữa là so với nước Đức, một trong những quốc gia phải chịu tác hại của khủng hoảng tài chính và kinh tế nặng hơn Pháp, nhưng Đức cũng không sa thải nhiều nhân viên như Pháp.

Một hậu quả khác nữa là thâm hụt ngân sách nhà nước gia tăng từ 2,7% GDP năm 2007 lên 7,5% vào năm 2009, vượt ngưỡng 3% theo qui định của Khu vực sử dụng đồng Euro (Eurozone).

Liên minh châu Âu liên tục đòi các nước Eurozone trở lại với tiêu chuẩn 3% GDP thâm hụt ngân sách nhà nước, nhưng Giáo sư Joseph Stiglitz cho rằng việc EU đòi  hỏi cân bằng ngân sách và áp dụng chính sách tài chính hà khắc là một sai lầm to lớn. Ông nói: “GDP tại các nước áp dụng chính sách cắt giảm chi tiêu đều sụt giảm và các nước này vấp phải phải rất nhiều khó khăn. Khốn khổ hơn, giải pháp này tạo nên ‘cái vòng luẩn quẩn’ và không thể cho phép thực hiện các biện pháp cải tổ tài chính như mong đợi. Giải pháp này lại càng không thích hợp khi toàn cầu đang lâm vào tình trạng đình đốn như hiện nay”.

Theo Giáo sư Stiglitz, vấn đề không phải là “làm thế nào để cắt giảm chi tiêu” mà là “làm thế nào để sử dụng một cách có hiệu quả nhất các khoản chi tiêu công cộng để nền kinh tế có thể khởi sắc trở lại, để mọi người tin tưởng vào tuơng lai và từ đó họ mạnh dạn đầu tư”. Có đầu tư thì mới có thể tạo thêm việc làm và như vậy mới có thể phát triển kinh tế. Kinh tế có phục hồi, nhà nước mới có hy vọng cân bằng  ngân sách. Giáo sư Stiglitz kết luận: “Nói cách khác, chúng ta có một cái nhìn quá thiển cận về vấn đề thâm hụt ngân sách”.

(tamnhin)

  • 10 siêu đại gia Nga trong danh sách đen sẽ bị Mỹ trừng phạt?
  • Liên minh 04 nước đối phó Trung Quốc ở châu Á-TBD?
  • Mỹ - Trung: Đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng 'rút kiếm'
  • Mỹ- Trung và quan hệ 'nước lớn kiểu mới'
  • Trung Quốc chịu “mở cửa” kiểm toán cho Mỹ
  • Thế giới thực sự có bao nhiêu tỷ phú?
  • Kinh tế thế giới bớt u ám nhờ Đông Á
  • Obama và trò chơi 'hai mặt của đồng tiền'
  • Sự thăng trầm của nền thịnh vượng quốc gia
  • Kinh tế xanh có thể giảm nghèo và giúp phát triển
  • Bắc Băng Dương không còn băng sau 20 năm nữa?
  • Thế giới tuần qua: Đoàn kết để đạt được các Mục tiêu Thiên niên kỷ
  • Năng lượng sạch: tranh cãi về chính sách
  • Đồng nhân dân tệ làm nóng quan hệ Trung – Mỹ
  • "Số người nghèo đói sẽ giảm một nửa vào năm 2015"
  • Các nước nghèo mất 450 tỷ USD mỗi năm vì nạn đói