Cả Mỹ lẫn Anh từng có con số nợ công khủng khiếp hơn bây giờ nhiều, nhưng hai quốc gia này vẫn vượt qua được. Vấn đề không nằm ở các biện pháp kích thích kinh tế.
Nền tài chính công choáng váng vì những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính. Những tác động ấy lại càng thêm nghiêm trọng nếu nợ công trước khủng hoảng quá lớn.
Trong nhóm các nước công nghiệp phát triển G7, đó chính là Anh và Mỹ. Vấn đề đối với cả hai quốc gia này là bao giờ mới thắt chặt kinh tế và sẽ phải thắt chặt thế nào.
Đợt thắt chặt này ắt sẽ phải rất mạnh tay, nhưng nếu quá hấp tấp có thể gây ra những tác hại khôn lường.
Trong tác phẩm nghiên cứu về lịch sử các cuộc khủng hoảng tài chính, Carmen Reinhart từ ĐH Maryland và Kenneth Rogoff từ ĐH Havard lưu ý rằng “con số nợ thực tế tăng gần gấp đôi” ở các quốc gia chịu khủng hoảng.
Điều này đúng với trường hợp của Anh và Mỹ. Nguyên do chỉ một phần nằm ở các gói cứu trợ cho khu vực tài chính hay các chương trình kích thích kinh tế.
Theo IMF, tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP sẽ tăng 10,6% trong giai đoạn từ 2007 đến 2010 nhưng hoàn toàn không phải do các biện pháp cần thiết để đối phó với khủng hoảng.
Trong trường hợp của Mỹ, tỷ lệ này tăng 6,5% nhưng chỉ có 1,8% là vì các biện pháp đó. Thâm hụt chủ yếu là do cơ cấu: con số GDP và thu ngân sách không còn như cũ.
(Thâm hụt cơ cấu là những khoản thâm hụt được quyết định bởi các chính sách tùy biến của chính phủ như thuế suất, chi tiêu cho bảo hiểm xã hội, giáo dục, quốc phòng, …)
Vậy thì thâm hụt ngân sách là do đâu? Lý do đầu tiên là tính chu kỳ .
Trong trường hợp của Anh, IMF dự đoán cuộc khủng hoảng lần này sẽ làm tăng tỷ số nợ công ròng trên GDP lên gần 50% trong giai đoạn 2007-2014. Điều tương tự chỉ có trong giai đoạn chiến tranh.
Lượng tăng lần này nhỏ hơn thời Cách mạng Pháp và Chiến tranh với Napoleon hay các cuộc thế chiến trong thế kỷ 20 nhưng lại lớn hơn nhiều các cuộc chiến trong thế kỷ 18. Vì thế, đây là một chương đặc biệt trong lịch sử tài khóa Anh.
Câu chuyện ở Mỹ có hơi khác một chút. Tỷ lệ nợ cũng tăng như thời chiến, nhỏ hơn Chiến tranh thế giới II nhưng lớn hơn thời nội chiến và Chiến tranh thế giới I.
Nhưng đây không phải lần đầu nước Mỹ chứng kiến tỷ lệ nợ tăng mạnh trong thời bình. Lần đầu tiên có chuyện này là dưới thời Cộng hòa những năm 1981-1992 khi kinh tế học trọng cung ra đời.
Dù tỷ lệ nợ công tại cả hai quốc gia đều rất lớn nhưng mức nợ công dự kiến vào năm 2014 không phải trường hợp cá biệt trong lịch sử, đặc biệt là ở Anh nơi tỷ lệ nợ công ròng trên GDP đã hai lên lên tới gần 250%.
Với Mỹ, nợ công có lẽ đã gần tới ngưỡng kỷ lục. Tuy vậy, những “kỷ lục” trong quá khứ không phải là không đối phó được.
Thế kỷ 19, cả hai quốc gia đều an toàn thoát khỏi đống nợ khổng lồ trong khi giá vẫn ổn định. Trong nữa đầu thế kỷ 20, họ lại thành công dù có phải nhờ đến sự giúp sức của lạm phát.
Đây không phải chuyện gì bất ngờ. Giả sử tỷ lệ lãi suất thực là 2,5%. Khi đó chi phí thực tế của khoản vay trị giá 100% GDP sẽ chỉ là 2,5% GDP, gần như không đáng kể.
Lại giả sử rằng tỷ lệ tăng trưởng có xu hướng cân bằng với lãi suất thực tế (không phải là một giả định vô lý). Khi đó điều kiện để ổn định nợ công là ngân sách “gốc” phải cân bằng (tức là ngân sách trước khi trả lãi vay). Điều này cũng không khó.
Vậy vấn đề nằm ở đâu? Đó là việc dân chúng mất niềm tin vào việc cuối cùng chính phủ sẽ kiểm soát được thâm hụt ngân sách. Có ít nhất hai lý do cho sự nghi ngờ này.
Thứ nhất, chiến tranh rồi cũng phải kết thúc, trong khi thâm hụt trong thời bình thì không.
Thứ hai, thời hậu chiến dễ cắt giảm thâm hụt, còn cắt giảm thâm hụt thời bình lại khó hơn nhiều: đồng xu nào chi ra mà chẳng có một nhóm lobby đằng sau nó.
Dù chỉ cam kết cắt giảm thâm hụt thôi cũng chẳng đáng tin. Vấn đề là quy mô của thâm hụt quá lớn.
IMF cho rằng thâm hụt ngân sách cơ cấu “gốc” của Mỹ sẽ là 3,7% GDP và của Anh là 7,8% GDP. Tỷ lệ này của Anh cao hơn tất cả các nước G7 khác, kể cả Nhật Bản.
IMF cũng cho rằng cần phải giảm tỷ lệ nợ xuống 60% trước năm 2030 để đối phó với những cú sốc mới. Tổ chức này kết luận rằng Mỹ và Anh lần lượt sẽ cần thắt chặt ngân sách 8,8% và 12,8% GDP.
Các quốc gia phát triển khác đã từng làm được điều này, đáng chú ý có Ireland vào những năm 80; Đan Mạch, Thụy Điển và Phần Lan vào những năm 90.
Nhưng đó sẽ là thách thức rất lớn, trừ khi có thể dựa vào tăng trưởng nhanh nhờ xuất khẩu. Những số liệu này khiến tuyên bố của Thủ tướng Anh Gordon Brown về sự ổn định trở nên vô nghĩa. Đó chắc chắn không phải là thứ đang chờ đợi nước Anh ở phía trước.
Không thể coi lòng tin là điều hiển nhiên. Đó là những gì đã diễn ra trên thị trường hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng: chênh lệch lợi suất với trái phiếu chính phủ Anh đã lại tăng lên 0,7%.
Người viết bài này ngờ rằng nguyên do các tổ chức xếp hạng tín dụng chưa đánh tụt hạng chứng khoán nợ của Anh là vì nếu làm vậy, theo logic, họ sẽ phải đánh tụt hạng của chứng khoán nợ của Mỹ. Tổ chức xếp hạng tín dụng nào lại muốn ra điều trần trước Hạ viện?
Cho dù thắt chặt chi tiêu có thể không kéo dài, nhưng cắt giảm thâm hụt ngay bây giờ là sai lầm. Nhiều khả năng động thái đó sẽ đẩy nền kinh tế quay về với suy thoái như những gì đã diễn ra ở Nhật Bản trong thập kỷ 1990.
Hơn nữa, kết quả sẽ là ngân hàng trung ương tiếp tục nới lỏng tiền tệ tín dụng. Những chính sách ấy có nguy cơ làm xói mòn niềm tin, đặc biệt là với đồng bản tệ, vì nhiều nhà đầu tư tin (dù không chính xác) rằng đó là những dấu hiệu đầu tiên của cơn bão lạm phát.
Vậy thế giới cần phải làm gì? Người viết hoàn toàn đồng ý với phát biểu của Giám đốc điều hành IMF Dominique Strauss-Kahn tại London rằng “vẫn còn quá sớm để rút lui hoàn toàn” khỏi các chính sách hỗ trợ. Điều này cũng đúng với Anh và Mỹ.
Thay vào đó, điều cần thiết là chính sách tài khóa đáng tin cậy và một lộ trình thắt chặt tài khóa tiền tệ sẽ được áp dụng tự động khi và chỉ khi chi tiêu của khu vực tư phục hồi.
Trong những điều cần làm ngay có việc vạch ra một lộ trình bền vững cho các khoản chi có liên quan tới thâm hụt cơ cấu như lương hưu của khu vực công. Nói ngắn gọn là một chính sách thắt chặt dài hạn đáng tin cậy tự động điều chỉnh theo sự phục hồi kinh tế.
Dù sao cũng không thể lẩn tránh được một sự thật chẳng mấy dễ chịu rằng cả Anh lẫn Mỹ đều không giàu như người ta từng nghĩ.
Có nhiều khoản thua lỗ cần người gánh chịu, đa phần trong số đó sẽ rơi vào chi tiêu công, thuế khóa, hoặc cả hai.
Một khi có những bằng chứng rõ ràng cho thấy cả hai quốc gia đều không thể đương đầu với thách thức này, chuyện khủng hoảng ngân sách là không thể tránh khỏi. Chuyện đó giờ chỉ là vấn đề thời gian.
CafeF
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com