Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Mỹ - Nga - Nhật Bản - Ấn Độ - Hàn Quốc và Trung Quốc ?

Ảnh hưởng từ Trung Quốc bao trùm thế giới
(Trích từ CafeF)

Cả thế giới đang nhìn vào Trung Quốc. Một quyết định của chính phủ nước này có thể khiến thị trường chứng khoán, hàng hóa, tiền tệ đảo lộn.

Cho tới khi Tổng thống Mỹ Barack Obama đưa ra dự thảo về việc cải tổ ngành ngân hàng trong ngày thứ Năm, tuần qua, những thông tin về Trung Quốc ảnh hưởng mạnh nhất đến thị trường.

Từ nỗi sợ về ảnh hưởng của tín dụng ngân hàng nội địa cho đến tốc độ tăng trưởng cao hơn dự kiến, những thông tin về nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới có tầm ảnh hưởng rộng.

Các chuyên gia chiến lược thị trường thường tuyên bố rằng nếu kinh tế Mỹ “hắt hơi”, kinh tế toàn thế giới “cảm cúm”. Biến động liên quan đến kinh tế Trung Quốc nay cũng đã có ảnh hưởng tương tự.

Vấn đề chính đối với nhà đầu tư là liệu điều này bắt nguồn từ nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh của Trung Quốc và quyền lực ngầm đối với thế giới hay liệu lo lắng của thị trường về việc điều đó sẽ chấm dứt.

Kinh tế Trung Quốc trong quý 4/2009 tăng trưởng với tốc độ 2 con số. Nhu cầu của Trung Quốc đối với hàng hóa, nguyên liệu thô đang ảnh hưởng đến giá cả các loại mặt hàng này ở mọi nơi.

Tầm ảnh hưởng của Trung Quốc đối với thị trường tiền tệ bắt nguồn từ việc Trung Quốc neo đồng nhân dân tệ vào đồng USD, hành động này bóp méo tỷ giá ở khắp nơi, dự trữ tiền tệ khổng lồ 2.400 tỷ USD cho phép Trung Quốc duy trì tốt việc neo tỷ giá.

Ông MacDonald, một chuyên gia chuyên nghiên cứu về Trung Quốc, nhận xét: “Thông thường mối quan hệ cung cầu trên thị trường hàng hóa thường bị phá vỡ. Liệu thị trường hàng hóa thế giới và Trung Quốc có thể mất kết nối không? Có, thế nhưng tôi không nghĩ khi nào thì điều đó xảy ra.”

Tuy nhiên, phần lớn các chuyên gia trên thị trường nghĩ rằng sự biến đổi về căn bản hiện đang dần hình thành.

Đối với nhà đầu tư, điều này quan trọng nếu xét trên phương diện tâm lý. Đã nhiều thập kỷ nay, nhà đầu tư trông chờ vào Mỹ để kéo kinh tế toàn cầu khỏi suy thoái và tập trung vào diễn biến của kinh tế Mỹ.

Lần này, tâm điểm sự chú ý của toàn cầu là Trung Quốc – nước đã vượt qua khủng hoảng mạnh hơn so với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Phương Tây buộc phải nghĩ lại mô hình kinh tế Trung Quốc và trọng tâm chú ý của họ.

Ông Rob Carnell, chuyên gia kinh tế trưởng tại ING, nhận xét: “Khi bạn nhìn vào những thay đổi mà Trung Quốc mang đến cho toàn thế giới, có thể thấy ảnh hưởng này lớn hơn so với bất kỳ tác động mà nước nào khác có thể tạo ra. Những gì thị trường chứng kiến hiện nay chính là kinh tế Trung Quốc tăng trưởng ấn tượng và điều đó không xảy ra ở nơi khác. Vì thế nếu triển vọng của Trung Quốc thay đổi, vấn đề này có tầm quan trọng không nhỏ.”
 

Trung Quốc: Mâu thuẫn giữa “nói” và “làm” trong chính sách kinh tế
(Trang tin VN&QT)

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang có khuynh hướng nhấn mạnh sự ổn định. Mặc dù gần đây chính phủ nước này đã gửi tới thế giới bên ngoài thông tin sẽ duy trì ổn định chính sách kinh tế, nhưng nỗ lực này chưa mang lại bất kỳ một sự hỗ trợ nào cho thị trường toàn cầu. Điều này đã thể hiện rõ sự mâu thuẫn giữa tình hình thực tại và lời lẽ của các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc, đồng thời việc này cũng khiến thị trường cảm thấy lo lắng và nghi ngờ.

Mặc dù các quan chức vẫn nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng, năm nay, Trung Quốc sẽ tiếp tục thi hành chính sách nới lỏng tiền tệ, nhưng trong các tin tức và báo cáo phân tích lại đầy rẫy những thông tin liên quan đến việc chính phủ yêu cầu các ngân hàng chấm dứt phát hành các khoản vay mới.

Suy cho cùng nguyên nhân gì dẫn đến mâu thuẫn giữa nói và làm của chính phủ Trung Quốc? Về khách quan mà nói, điều này cũng cần phải trách thị trường đã phản ứng quá mức trước những thông tin có liên quan đến Trung Quốc. Tuy nhiên, chính phủ Trung Quốc cũng khó mà đổ lỗi cho ngoại cảnh bởi vì chính phủ nước này đã chậm trễ không muốn thay đổi sách lược.

Phản ứng trước những thông tin trên, Trung Quốc cho rằng, mặc dù chiều hướng tăng trưởng mạnh mẽ này trong năm nay khó mà tiếp tục được, nhưng cũng không thể đột nhiên gián đoạn. Bởi vì chính phủ Trung Quốc vẫn đang nỗ lực giữ biên độ tăng trưởng kinh tế năm 2010 duy trì trên 8%. Các cơ quan giám sát ngành ngân hàng Trung Quốc dự đoán, quy mô các khoản vay mới trong năm nay sẽ vào khoảng 1100 tỷ USD, điều này sẽ khiến các khoản vay năm 2010 tăng từ từ 18%. Mặc dù mức tăng thấp hơn năm 2009, nhưng cũng không thể nói chính phủ muốn đột nhiên thắt chặt chính sách tiền tệ.

Theo giải thích của chính phủ Trung Quốc, toàn bộ phương hướng chính sách mặc dù chưa thay đổi, nhưng những điều chỉnh nhỏ vẫn khó mà tránh được. Việc chính phủ đang yêu cầu các ngân hàng dừng phát hành các khoản vay mới chỉ là tạm thời, hơn nữa có thể chỉ kéo dài đến cuối tháng này.


Nga, Trung đã cùng phối hợp phá nền kinh tế Mỹ?
( Trang tin VN&QT)

Phát ngôn viên Bộ ngoại giao Trung Quốc hôm thứ Ba (2/2/2010) khẳng định Trung Quốc chưa từng đàm phán với bất kỳ quốc gia nào về kế hoạch bán phá giá trái phiếu của Fannie Mae và Freddie Mac.

Lời khẳng định trên được đưa ra nhằm đáp trả những cáo buộc của cựu Bộ trưởng ngân khố Mỹ Hank Paulson rằng Nga đã “hối thúc” Trung Quốc phá giá trái phiếu của Fannie Mae và Freddie Mac hồi năm 2008 nhằm đẩy hệ thống tài chính Mỹ rơi vào tình trạng bất ổn.

Ông Mã Triều Húc khẳng định Trung Quốc “không bao giờ thảo luận vấn đề phá giá trái phiếu của hai định chế cho vay thế chấp này.”

Ông Mã nhấn mạnh rằng trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, “Trung Quốc luôn nắm giữ vai trò trách nhiệm, làm mọi việc có thể để duy trì sự ổn định của thị trường tài chính toàn cầu… Những điều này là rất rõ ràng với bất kỳ nước nào trên thế giới.”

Hôm thứ Hai (1/2), Nga cũng bác bỏ lập luận rằng nước này đã tiếp cận và “ép” Trung Quốc bán phá giá trái phiếu của Fannie Mae và Freddie Mac.

Thư ký báo chí của Thủ tướng Nga, ông Dmitry Peskov khẳng định “vào thời điểm đó, Nga đang đầu tư những nguồn vốn lớn vào các định chế này và không mong muốn khiến các định chế này bất ổn.”

Trong hồi ký của mình, cựu Bộ trưởng ngân khố Mỹ Hank Paulson viết ông đã nhận thấy “kế hoạch phá hoại” khi tham dự các lễ kỷ niệm tại Thế vận hội mùa hè ở Bắc Kinh.

Theo số liệu của ngân hàng trung ương, Nga đã bán hết mọi khoản nợ của Fannie và Freddie hồi năm 2008. Trước đó, Nga đã nắm giữ lượng chứng chỉ của hai định chế này có giá trị lên tới 65 tỷ USD hồi đầu năm 2008.


Thông điệp đầu tiên của Tổng thống Mỹ Barack Obama: Nước Mỹ không chấp nhận vị trí thứ hai
(Theo V.Minh/SGGP)

Mở đầu thông điệp liên bang đầu tiên đọc sáng ngày 28-1 (giờ VN), Tổng thống Mỹ Barack Obama (ảnh) đã đặt mình vào tình thế của một tổng thống đang gặp khó khăn khi cho rằng trong suốt 220 năm kể từ khi Hiến pháp quy định tổng thống đọc thông điệp liên bang. Ông nói: “Cách đây một năm, tôi nhậm chức giữa lúc diễn ra hai cuộc chiến đó là một nền kinh tế suy giảm, hệ thống tài chính trên bờ vực sụp đổ và một chính phủ lún sâu trong nợ nần”.

Theo ông Obama, giờ đây, “cơn bão tồi tệ nhất đã qua nhưng sức tàn phá của nó vẫn còn”. Ông chỉ ra tỷ lệ thất nghiệp cao khi cho rằng 1/10 người Mỹ vẫn chưa tìm được việc làm, nhiều doanh nghiệp đóng cửa, giá nhà giảm, cuộc sống người dân ngày càng khó khăn hơn. Tổng thống Obama đặt ưu tiên hàng đầu vào việc giải quyết tình trạng thất nghiệp.

Tổng thống Mỹ Barack Obama nói: “Tôi sẽ không rút lui” trước những vấn đề nan giải hiện nay của nước Mỹ. Ông Obama chỉ ra rằng mặc dù các kế hoạch dài hạn của ông về cải cách y tế, năng lượng, giáo dục, kinh tế… đang gặp khó khăn nhưng ông sẽ không từ bỏ các kế hoạch này.

Ông cũng đã thúc giục Quốc hội đang bị chia rẽ về việc tiếp tục thông qua các khoản chi tiêu nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế vì tất cả là để “cứu người dân Mỹ” chứ không phải là tham vọng chính trị của đảng nào. Dẫn chứng những nền kinh tế lớn trên thế giới cũng đang tập trung đầu tư vào khoa học và cơ sở hạ tầng để phát triển như Đức, Ấn Độ và Trung Quốc; Tổng thống Mỹ cho rằng ông không thể chấp nhận nước Mỹ “ở vị trí thứ hai” về phát triển kinh tế.

Mỹ sẽ dùng kinh tế "bóp chết" Trung Quốc!
(Cao phong//vietinfo)

Hiện nay, kinh tế toàn cầu đang cho thấy những dấu hiệu hồi phục tích cực sau khủng hoảng. Một số nền kinh tế lớn đang có tốc độ phục hồi đáng nể, trong đó bao gồm nền kinh tế Mỹ. Song bên cạnh đó, có nhiều người đặt ra câu hỏi, liệu trong năm nay, kinh tế Mỹ đã đặt ra cho mình những mục tiêu gì để đối phó với Trung Quốc nhằm tiếp tục duy trì vị thế đứng đầu thế giới của mình?
Theo nhiều chuyên gia phân tích kinh tế nhận định, hiện kinh tế Mỹ có 6 mục tiêu sau.

Thứ nhất, nắm chắc “con át chủ bài” của các trung tâm tài chính lớn trên thế giới như Dubai, Hy Lạp, đồng thời đóng vai trò tác nhân trong việc châm ngòi nổ cho nguy cơ nợ chủ quyền của khu vực Âu-Á. Bên cạnh đó, chúng ta thấy rằng một phần chiến lược này đã phát huy hiệu quả. Các nước Châu Âu đã bị hành động bá quyền của đồng USD làm cho “sợ hãi”, hàng loạt các quốc gia như Tây Ban Nha, Đức, Pháp đều bùng nổ nguy cơ nợ chưa trả gia tăng.

Thứ hai, lợi dụng sự lên xuống của đồng USD, từng bước “thắt cổ” sự phục hồi kinh tế của các nền kinh tế mới nổi. Một ví dụ điển hình là Trung Quốc, trong năm 2009 vừa qua, sự phục hồi kinh tế nước này đạt được nhiều thành tựu to lớn. Trong khi tổng thống Obama phải chi ra một khoản ngân sách khổng lồ để vực dậy nền kinh tế Mỹ. Điều này khiến chính phủ của ông Obama chịu nhiều áp lực. Hiện, chính sách nâng giá trị đồng USD có tác dụng to lớn, một mặt chính sách này giúp giảm một lượng lớn lượng tiền khiến áp lực lạm phát trong nước giảm xuống, mặt khác khiến thị trường vốn các nước thành viên nhóm BRIC gặp nhiều khó khăn

Thứ ba, đồng USD tăng giá. Hiện trên thế giới hầu hết các giao dịch thương mại đều thông qua đồng USD, bên cạnh đó đồng USD được chon làm công cụ chính để phòng tránh rủi ro. Do tính thu hồi lưu động nên sẽ khiến nền kinh tế các nước khác rơi vào các khoản nợ khổng lồ và nguy cơ suy thoái kinh tế.

Thứ tư, gần đây, những “va chạm” giữa Mỹ và Trung Quốc tiếp tục có chiều hướng gia tăng. Một mặt khiến mối quan hệ giữa hai quốc gia này căng thẳng, mặt khác khi đồng USD tăng giá sẽ là một đòn chí tử đối với thị trường nhà đất và vốn Trung Quốc, gây ảnh hưởng không nhỏ tới khẳ năng phục hồi kinh tế của nước này.

Thứ năm, trước đây, Mỹ thường lợi dụng quan niệm sung bái giới kinh tế học phương tây của giới kinh tế học Trung Quốc, không ngừng cổ vũ họ thổi phồn nguy cơ bong bóng nhà đất và kinh tế phát triển quá nóng của Trung Quốc, tiếp đó lợi dụng đồng USD hồi sinh gây ra ảnh hưởng tới thị trường nhà đất, cổ phiếu tại Trung Quốc, mà mục đích cuối cùng vẫn là phá hoại mục đích phục hồi kinh tế của nước này.

Thứ sáu, việc đồng USD và NDT đồng loạt lên giá, sau đó Mỹ lại đem điều này ra chương trình nghị sự khiến giao dịch thương mại quốc tế của Trung Quốc bị tác động lớn, vô hình chung hình thành lên xu thế kèm chặt kinh tế Trung Quốc. Tuy nhiên sau đó, Mỹ lại gia tăng áp lực giảm giá đồng USD, động thái này khiến kinh tế Trung Quốc một lần nữa đối mặt với nguy cơ kinh tế đình trệ do lạm phát.



Ấn Độ có thể đánh bại tăng trưởng kinh tế Trung Quốc?
( Trang tin VN&QT)

 Phó chủ tịch Ủy ban kế hoạch Ấn Độ, ông Montek Singh Ahluwalia hôm thứ Hai (1/2) lên tiếng bày tỏ niềm tin chắc chắnrong vài năm tới Ấn Độ có thể nổi lên trở thành nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thế giới, đánh bại Trung Quốc với tư cách là quốc gia đạt được tiềm năng phát triển đầy đủ.

“Chúng ta đã đẩy mạnh nền kinh tế… song vẫn chưa đạt đến đỉnh của tiềm năng phát triển, có thể ở mức 9 hoặc 10%. Do vậy, nếu Ấn Độ tiếp tục tăng trưởng ở mức 10% trong khi Trung Quốc bắt đầu kìm hãm sự phát triển, thế giới sẽ được chứng kiện hiện thực Ấn Độ phát triển nhanh hơn Trung Quốc,” ông Ahluwalia phát biểu tại Lễ bế mạc cuộc họp của Diễn đàn kinh tế thế giới tại Davos.

Trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra, nền kinh tế Ấn Độ thường xuyên đạt được tốc độ tăng trưởng trên 9%. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến tốc độ phát triển kinh tế của Ấn Độ sụt giảm còn 6,7% trong giai đoạn 2008-09.

Trong năm tài khóa hiện tại, Ấn Độ hy vọng có thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,7%. Dự báo trên được khẳng định trong bản Đánh giá tình hình kinh tế giữa năm của Bộ trưởng tài chính Ấn Độ Pranab Mukherjee được trình lên Quốc hội Ấn Độ hồi tháng 12 vừa qua.

Kết thúc quý IV/2009, Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế 10,7%, duy trì vị thế nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới trong suốt năm 2009. Trong khi đó, nền kinh tế Ấn Độ chỉ đạt được tốc độ phát triển 7,9% trong quý III/2009.

Ông Ahluwalia là đại diện của Ấn Độ tham gia một vài phiên họp của cuộc họp lần thứ 40 Diễn đàn kinh tế thế giới tại khu nghỉ dưỡng Alpine Thụy Sĩ. Tại đây, ông liên tục nhấn mạnh rằng ấn tượng về Ấn Độ đã thay đổi đáng kể trong cộng đồng các nhà đầu tư toàn cầu.


5 hiểu lầm về kinh tế Ấn Độ
(Theo Vneconomy // Business Week)
 

Một đường phố ở Mumbai.  Những thành phố lớn của Ấn Độ vẫn là ví dụ sinh động về đô thị của một  quốc gia đang phát triển. - tinkinhte.com
Một đường phố ở Mumbai. Những thành phố lớn của Ấn Độ vẫn là ví dụ sinh động về đô thị của một quốc gia đang phát triển.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, Ấn Độ đang chuyển mình từ chỗ là miền đất của những đàn voi và người thôi miên rắn thành một cường quốc công nghệ thông tin, một nền kinh tế mới nổi hùng mạnh.

Dù hai cách nhìn trên về Ấn Độ đều hợp lý, nhưng từ trước tới nay, không ít người đã hiểu chưa chính xác về nền kinh tế này.

Trên tờ Business Week, hai tác giả Anil K. Gupta và Haiyan Wang đã chỉ ra 5 hiểu lầm thường gặp và sự thật phía sau những hiểu lầm đó về kinh tế Ấn Độ. Theo hai tác giả này, công nghệ thông tin chưa phải là đầu tàu của kinh tế Ấn Độ như nhiều người vẫn nghĩ, và nền giáo dục của Ấn Độ vẫn còn nhiều hạn chế, nhưng nền kinh tế này không thua kém Trung Quốc tới mức như quan niệm thường thấy.

Hiểu lầm 1: Lĩnh vực công nghệ thông tin đóng vai trò là động lực chính đối với tăng trưởng của kinh tế Ấn Độ

Không ai có thể phủ nhận việc Ấn Độ là một cường quốc trong lĩnh vực công nghệ thông tin (IT) và các dịch vụ IT. Tuy nhiên, IT chỉ đóng một phần rất nhỏ vào nền kinh tế Ấn Độ. Năm 2008, ngành IT của Ấn Độ đạt doanh thu 72 tỷ USD. Nếu tính ở phương diện giá trị gia tăng, lĩnh vực này đóng góp vỏn vẹn 4% GDP của Ấn Độ trong năm 2009.

Đóng góp của ngành này vào việc tạo công ăn việc làm tại Ấn Độ thậm chí còn nhỏ hơn. Chỉ có khoảng 2 triệu người ở Ấn Độ làm việc trực tiếp trong ngành IT, và ngành này cũng chỉ tạo thêm được 8 triệu việc làm gián tiếp ở nước này, trong lực lượng lao động lên tới 700 triệu người tại đây.

Như vậy, dù ngành IT của Ấn Độ đang tăng trưởng với tốc độ 25% mỗi năm và đem đến cho Ấn Độ một hình ảnh thương hiệu tốt, thì phần lớn sự tăng trưởng của nền kinh tế nước này vẫn đang được đóng góp chủ yếu bởi ngành sản xuất và các ngành dịch vụ khác.

Hiểu lầm 2: Kinh tế Ấn Độ “thua” kinh tế Trung Quốc hàng thập kỷ

Nhiều du khách từng đặt chân tới Ấn Độ và Trung Quốc đều có ấn tượng mạnh khi so sánh Mumbai, New Dehli và Bangalore với Thượng Hài, Bắc Kinh và Quảng Châu. Sự khác biệt giữa các đô thị của hai quốc gia này rất rõ nét. Những thành phố hàng đầu của Trung Quốc giờ đây có vẻ ngoài hiện đại và hào nhoáng không kém gì New York hay London. Trong khi đó, những thành phố lớn của Ấn Độ vẫn là ví dụ sinh động về đô thị của một quốc gia đang phát triển. Trên thực tế, kinh tế Ấn Độ không “thua xa” kinh tế Trung Quốc như sự so sánh trên chỉ ra.

Năm 2008, GDP của Trung Quốc cao hơn 3 lần so với GDP của Ấn Độ. Nếu GDP của Ấn Độ tăng trưởng 8-9% trong thập kỷ tới như dự báo của nhiều tổ chức uy tín (theo số liệu mới nhất, trong quý 3/2009, kinh tế Ấn Độ tăng 7,9%) thì tới năm 2020, quy mô của nền kinh tế nước này sẽ ngang bằng với kinh tế Trung Quốc năm 2008.

Như vậy, kinh tế Ấn Độ chỉ cách kinh tế Trung Quốc khoảng 12-14 năm, thay vì vài thập kỷ như suy nghĩ của nhiều người. Sự cách biệt này tương ứng với khoảng thời gian giữa năm 1978, khi Trung Quốc bắt đầu cải cách, và năm 1991, khi Ấn Độ cũng bắt tay vào thực hiện chiến lược tương tự.

Hiểu lầm 3: Nền chính trị dân chủ ở Ấn Độ sẽ cản trở việc cải thiện nhanh chóng hệ thống cơ sở hạ tầng

Với hệ thống chính trị dân chủ cao độ, bất kỳ chính phủ nào lên cầm quyền ở Ấn Độ cũng gặp khó trong việc di dời hàng triệu dân khỏi các trung tâm thành phố để nhường chỗ cho các dự án nhà cao tầng. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng không chỉ bao gồm những con đường lớn và những tòa nhà cao, mà còn bao gồm cả cảng biển, sân bay, nhà máy phát điện, hệ thống truyền dẫn, viễn thông, đường ray… Do đó, nền chính trị của Ấn Độ chỉ cản trở việc cải thiện bộ mặt đô thị của các nước này, thay vì cả hệ thống cơ sở hạ tầng nói chung.

Trong thời gian 1995-2007, Trung Quốc chi khoảng 8,5% GDP vào cơ sở hạ tầng, so với mức 4,2% GDP của Ấn Độ chi cho lĩnh vực này. Tuy nhiên, hiện nay, Ấn Độ hiện đang chi 8% GDP cho cơ sở hạ tầng, và dự kiến sẽ tăng mức chi này lên 9%. Nhưng do mức độ dân chủ cao, khả năng Ấn Độ sẽ trở thành một công xưởng của thế giới trước khi những thành phố của nước này có vẻ ngoài hiện đại hơn.

Hiểu lầm 4: Tăng trưởng dân số không kiểm soát là một gánh nặng của Ấn Độ

Khi nghĩ tới Ấn Độ, nhiều người hình dung ngay tới những thành phố đông chật dân nghèo và đặt câu hỏi, liệu nước này có thể chịu đựng được mãi tốc độ tăng trưởng dân số không kiểm soát hiện nay?

Đúng là tại Ấn Độ hiện không có chính sách hạn chế sinh đẻ nào được áp dụng, nhưng xu hướng tăng trưởng dân số ở đây là ngày càng đi xuống. Tỷ lệ sinh ở nước này đã giảm từ mức 4,65 vào năm 1980, xuống còn 3,25 vào năm 2000, rồi 2,68 vào năm 2007. Tốc độ tăng trưởng dân số cũng giảm nhanh chóng từ mức 2,15% mỗi năm vào thập niên 1980, xuống 1,5% vào năm 2000, và 1,35% kể từ đó tới nay.

Nếu xu hướng này tiếp tục, thì tỷ lệ sinh của Ấn Độ sẽ chỉ còn 2,0 trong thập kỷ tới, và tăng trưởng dân số sẽ chỉ còn 0,6% mỗi năm, bằng với mức của Trung Quốc hiện nay. Nói cách khác, sự tăng trưởng dân số của Ấn Độ đang tự điều chỉnh, thay vì là một gánh nặng dai dẳng đối với tăng trưởng kinh tế của nước này.

Hiểu lầm 5: Ấn Độ có nền giáo dục đẳng cấp quốc tế

Trong buổi lễ ra mắt quỹ cải cách giáo dục “Race to the Top” của Mỹ, Tổng thống nước này Barack Obama đã khuyến khích các trường học ở Mỹ phát triển các tiêu chuẩn cạnh tranh quốc tế để các các sinh viên Mỹ có thể đuổi kịp “sinh viên ở Bắc Kinh và Bangalore”. Tổng thống Obama đã đúng khi tăng đầu tư cho giáo dục, nhưng nếu xem hệ thống giáo dục của Ấn Độ thuộc hàng đẳng cấp quốc tế thì có lẽ chưa thực sự chuẩn xác.

Ở Ấn Độ, sự phân hóa không chỉ diễn ra mạnh mẽ ở phương diện thu nhập mà còn ở cả trong lĩnh vực giáo dục. Việc đặt chân vào những trường đại học đẳng cấp cao ở Ấn Độ như Viện Công nghệ Ấn Độ và Viện Quản lý Ấn Độ còn khó khăn hơn cả vào những trường danh tiếng hàng đầu của Mỹ như Havard hay MIT. Những trường này cũng là cái nôi đào tạo hàng loạt giám đốc điều hành và lãnh đạo cao cấp cho những doanh nghiệp lớn nhất thế giới.

Tuy nhiên, tỷ lệ biết chữ ở người trưởng thành của Ấn Độ hiện chỉ đạt mức 61%, so với mức 91% của Trung Quốc, 90% của Indonesia, và 89% của Brazil. Trong suốt 5 thập kỷ qua, Trung Quốc nhấn mạnh việc phát triển giáo dục phổ thông, trong khi Ấn Độ lại thúc đẩy giáo dục bậc cao. Tuy nhiên, với cuộc cách mạng sản xuất đang diễn ra, Ấn Độ đang cần nhiều “thợ” hơn “thầy”.


Triền vọng kinh tế Nhật Bản năm 2010
(VOVnews)

Kinh tế Nhật Bản thời gian gần đây đang cho thấy những dấu hiệu phục hồi trở lại.

Giá cổ phiếu tăng cao nhất trong 3 tháng qua với chỉ số Nikkei bình quân của 225 cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo đạt 10.536 điểm, tăng thêm 158 điểm so với 3 tháng trước. Chỉ số Topic của tất cả các cổ phiếu tại thị trường Tokyo cũng tăng 10 điểm lên 913 điểm.

Sự tăng giá cổ phiếu tại Tokyo là nhờ giá cổ phiếu ở các thị trường châu Á khác tăng, cùng với USDcũng tăng giá so với đồng yên từ 1 USD đổi được 85 yên lên 91 yên.

Đồng yên giảm giá so với đồng USD nên các nhà đầu tư đã tăng mua cổ phiếu của các công ty xuất khẩu như các hãng xe hơi và điện tử. Sản lượng công nghiệp của Nhật Bản trong tháng 11/2009 đã tăng 2,6% so với tháng trước đó, và là tháng thứ 9 liên tiếp tăng, cho thấy nghành công nghiệp nước này đã thực sự được phục hồi sau một thời gian dài chìm sâu trong khủng hoảng. Kết quả này là do sản lượng xuất khẩu xe hơi và các mặt hàng điện tử sang Mỹ và thị trường châu Á tăng mạnh.

Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao, trên 5%. Mặc dù xuất khẩu tăng nhưng các doanh nghiệp vẫn chưa tăng tuyển dụng lao động. Con số thất nghiệp tăng hơn 29% so với năm 2008, lên tới 3,3 triệu người. Số người có việc làm giảm 2% xuống còn 62,6 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp cao dẫn đến việc giá tiêu dùng giảm 1,7% so với năm 2008.

Chỉ số tiêu dùng chính, bao gồm giá thực phẩm, giảm tháng thứ 9 liên tiếp, dẫn đến hiện tượng giảm phát và gây thiệt hại cho tăng trưởng kinh tế bởi lợi nhuận của công ty thấp, người tiêu dùng cũng tiết kiệm hơn và do đó nhu cầu sẽ giảm…

Mặc dù vậy, các chuyên gia dự báo năm 2010, kinh tế Nhật Bản tăng trưởng thực chất đạt 1,4% và tăng trưởng danh nghĩa là 0,4% nhờ tăng xuất khẩu sang các nước châu Á, trong đó Trung Quốc là thị trường lớn nhất. Tiêu dùng sẽ tăng nhờ các biện pháp cứu trợ kinh tế cả gói của Chính phủ. Đây sẽ là lần đầu tiên trong 3 năm qua, Nhật Bản đạt được tăng trưởng dương trong cả tăng trưởng thực chất và tăng trưởng danh nghĩa.

Ngân sách năm tài khóa 2010 được Chính phủ thông qua trị giá 92,3 nghìn tỷ yên, khoảng 1.014 tỷ USD. Trong đó, chi tiêu chính sách chiếm 587 tỷ USD, chủ yếu cho chương trình hỗ trợ trẻ em mà đảng cầm quyền Dân chủ Nhật Bản (DPJ) cam kết trong chiến dịch tranh cử, chiếm hơn 51% ngân sách nhà nước. Chi tiêu cho các công trình công cộng giảm lớn nhất, trong đó xây dựng cầu đường giảm 18,3%, viện trợ phát triển Chính phủ (ODA) cũng giảm 7,9%.

Thu nhập từ thuế đạt khoảng 410 tỷ USD, giảm khoảng 19% so với năm 2009. Để bù đắp thiếu hụt này, Chính phủ phải phát hành trái phiếu mức kỷ lục hơn 44 nghìn tỷ yên, khoảng 487 USD, tăng 33% so với năm 2009, vượt qua mức thu nhập thuế lần đầu tiên trong 63 năm qua, chiếm 48% thu nhập Chính phủ.

Như vậy, tính đến cuối năm tài khóa 2010, trái phiếu Chính phủ sẽ đạt khoảng 7.000 tỷ USD, nợ dài hạn của chính quyền Trung ương và địa phương sẽ vượt trên 9.000 tỷ USD. Với nguồn thu nhập từ một nền kinh tế suy thoái, chính phủ Nhật Bản sẽ phải đối mặt với thách thức lớn trong phục hồi sức mạnh tài chính cũng như kinh tế yếu kém của mình.

Bước vào năm 2010, mặc dù kinh tế Nhật Bản vẫn còn một số vấn đề tồn tại như tình trạng giảm phát và đồng yên tăng giá bất thường, song tình hình sản xuất trong nước đã lạc quan hơn. Hơn nữa xuất khẩu tăng trở lại, nhất là sang Trung Quốc và các khu vực châu Á và hiệu quả từ các biện pháp hỗ trợ kinh tế của Chính phủ đã bắt đầu phát huy tác dụng là những nhân tố giúp phục hồi kinh tế nước này.

Việc đưa ra Chiến lược phát triển kinh tế từ nay đến năm 2020 nhằm đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia tỏa sáng trong khu vực châu Á với mục tiêu đạt mức tăng trưởng kinh tế bình quân 3% mỗi năm đang được dư luận các giới quan tâm đặc biệt sẽ góp phẩn đưa Nhật Bản để có thể giũ vững vị trí của một nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới./.


Kinh tế Hàn Quốc được đánh giá hạng A+
(TTXVN/Vietnam+)

Các tổ chức đánh giá tín nhiệm hàng đầu trên thế giới như Moody’s, Fitch và Standard & Poor’s đã giữ nguyên mức đánh giá tốt (hạng A+) đối với nền kinh tế Hàn Quốc, bất chấp nguy cơ bất ổn gia tăng trên bán đảo Triều Tiên sau khi Bình Nhưỡng tiến hành thử hạt nhân và tên lửa.
 
Điều này cho thấy nền kinh tế Hàn Quốc được đánh giá là đủ mạnh để đương đầu với rủi ro từ bên ngoài.
 
Việc Triều Tiên thử hạt nhân cùng các diễn biến căng thẳng trong quan hệ liên Triều đã làm gia tăng quan ngại về nguy cơ mất ổn định tại khu vực, tuy nhiên ảnh hưởng trực tiếp của những động thái này đối với nền kinh tế Hàn Quốc là không đáng kể.
 
Thị trường chứng khoán và tài chính Hàn Quốc dù có phản ứng tiêu cực, song đã ngay lập tức trở lại bình thường.
 
Nhiều chuyên gia nhận định rằng Hàn Quốc sẽ là một trong những quốc gia hồi phục nhanh nhất trong cơn bão khủng hoảng toàn cầu, và dường như một vụ thử hạt nhân chưa đủ để làm rung chuyển nền kinh tế Hàn Quốc.

Hàn Quốc đã nhiều lần chứng tỏ khả năng ứng phó với khủng hoảng. Nước này đã đạt được sự phát triển công nghiệp thần kỳ sau một trong những cuộc chiến tranh khốc liệt trong lịch sử, hồi phục nhanh và mạnh mẽ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998. Những kinh nghiệm này đã giúp Hàn Quốc duy trì nền kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu hiện nay./.


Kinh tế Nga sẽ chuyển biến tích cực trong năm 2010
(Theo cpv)
Theo sự đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), GDP của Nga suy giảm 9% trong năm 2009. Tình hình sẽ được cải thiện lạc quan trong năm nay với mức tăng trưởng GDP 3,6% và trong năm 2011 là 3,4%.
Số liệu cho thấy, các kết quả năm 2009 không mấy tốt đẹp, tình hình sẽ được cải thiện trong hai năm kế tiếp. Vào tháng 10 năm ngoái, IMF cho rằng sự suy giảm của kinh tế Nga ở mức 7,5% GDP và tăng trưởng trong năm 2010 chỉ là 1,5%.

Trong khi đó, có rất nhiều dự đoán khác về kinh tế Nga trong năm 2010. Tổng thống Nga D. Medvedev cho rằng, năm 2010 kinh tế Nga có thể sẽ tăng trưởng từ 2,5% - 5%. Ngân hàng thế giới cho rằng, với giá dầu thô ở mức 76 USD/thùng thì tăng trưởng GDP của nước này đạt 3,2%. Bộ Phát Triển Kinh tế Nga dự báo mức tăng trưởng kinh tế sẽ là 3,1%, tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp có thể đạt 2,8%.

Sau khi trải qua đợt sụt giảm mạnh vào năm 2009, các nhà phân tích đều cho rằng, kinh tế Nga sẽ từ từ bước ra khỏi khủng hoảng tài chính và chuyển biến tích cực trong thời gian tới ./.
 


 

  • 10 siêu đại gia Nga trong danh sách đen sẽ bị Mỹ trừng phạt?
  • Liên minh 04 nước đối phó Trung Quốc ở châu Á-TBD?
  • Mỹ - Trung: Đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng 'rút kiếm'
  • Mỹ- Trung và quan hệ 'nước lớn kiểu mới'
  • Trung Quốc chịu “mở cửa” kiểm toán cho Mỹ
  • Thế giới thực sự có bao nhiêu tỷ phú?
  • Kinh tế thế giới bớt u ám nhờ Đông Á
  • Obama và trò chơi 'hai mặt của đồng tiền'
  • Khủng hoảng vẫn bàn chuyện làm ăn
  • Kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng 2,7% trong năm nay
  • Năm 2010: ASEAN tiếp tục phát triển năng động
  • Kêu gọi nước giàu tăng đầu tư vào nước nghèo
  • 10 dự đoán về kinh tế toàn cầu của năm 2010
  • Kinh tế thế giới 2010: Mong manh trong ổn định
  • Chùm tin thế giới : Năm 2009, thế giới thêm 212 triệu người thất nghiệp
  • Jamaica - đảo quốc có nguy cơ phá sản năm 2010?