Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Quan hệ kinh tế Mỹ - Trung: Các điểm nóng

Chính sách tỷ giá là một trong những điểm nóng trong quan hệ kinh tế Mỹ - Trung suốt thời gian dài vừa qua.

Bài viết tập trung phân tích các điểm nóng trong quan hệ kinh tế Mỹ - Trung và, trong trường hợp có thể, đưa ra một số dự báo về triển vọng hợp tác và giải quyết các điểm nóng này.

Điểm nóng số 1: Mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân thương mại Mỹ - Trung

Tình trạng mất cân bằng mậu dịch Mỹ - Trung đang diễn tiến theo hướng ngày càng tồi tệ hơn. Nói như ông Gary Locke, Bộ trưởng Thương mại Mỹ, thì tình trạng này không “bền vững”. Trong vòng 10 năm qua, thâm hụt mậu dịch của Mỹ với Trung Quốc đã tăng liên tục và lên tới 268 tỉ đô la Mỹ vào năm 2008.

Theo phía Mỹ, tình trạng mất cân đối này nảy sinh từ chính sách tăng trưởng dựa vào xuất khẩu của Trung Quốc, từ chỗ tiêu dùng nội địa của nước này thấp, từ chính sách tỷ giá và các rào cản thương mại mà Trung Quốc áp đặt lên các hàng hóa xuất khẩu.

Cứ 1 đô la hàng hóa Mỹ xuất sang Trung Quốc thì Mỹ phải nhập về 4,46 đô la hàng Trung Quốc.
Thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc đã lên mức kỷ lục 268 tỉ đô la Mỹ trong năm 2008.

Vấn đề tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và định giá thấp đồng nhân dân tệ để tạo lợi thế cho xuất khẩu của Trung Quốc là vấn đề đã tồn tại từ lâu. Việc bảo hộ bằng chính sách “Buy China” thì chỉ mới có gần đây (Trung Quốc đã yêu cầu các cơ quan nhà nước ở mọi cấp phải mua hàng nội trừ khi các hàng hóa này không có sẵn ở trong nước).

Phía Trung Quốc phản pháo lại rằng đồng nhân dân tệ đã được nâng giá khá nhiều trong thời gian qua và được giữ ổn định so với đồng đô la Mỹ từ hồi thế giới lâm vào suy thoái. Trung Quốc cũng chỉ trích Mỹ không chịu xuất khẩu các mặt hàng công nghệ cao là thứ mà Trung Quốc đang cần. Trung Quốc cũng phàn nàn rằng Mỹ sử dụng cái gọi là thuế các bon (carbon tariffs) để dựng lên hàng rào bảo hộ chống lại hàng hóa từ Trung Quốc.

Vì lập trường của hai bên đều cứng rắn, có vẻ như sẽ không có bất kỳ giải pháp rõ ràng nào cho tình trạng mất cân bằng về thương mại giữa hai nước.

Báo cáo của hãng phân tích Stratfor đánh giá rằng, với cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, Trung Quốc đang cần phải tăng trưởng bằng mọi giá để giữ ổn định chính trị nội địa. Vì thế, họ sẽ không nhường Mỹ trên vấn đề xuất khẩu.

Thêm nữa, từ khi gia nhập WTO tới nay, Trung Quốc ngày càng trở nên tinh vi trong việc sử dụng các quy định của WTO để chống lại Mỹ và các nước khác trong trường hợp xảy ra các tranh chấp thương mại. Stratfor cũng cho rằng có lẽ nước Mỹ sẽ ngày càng ngả theo hướng bảo hộ mậu dịch và dùng nó làm công cụ để bảo vệ tình trạng công ăn việc làm cũng như giảm bớt thâm hụt thương mại.

Điểm nóng số 2: Trung Quốc - chủ nợ lớn nhất của Mỹ

Trung Quốc là nước có dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới. Mức dự trữ này tăng liên tục với tốc độ cực nhanh từ mức 165 tỉ đô la Mỹ năm 2000 lên tới 1.066 tỉ đô la Mỹ năm 2006 và trên 2.000 tỉ vào giữa năm 2009. Một phần lớn số dự trữ này nằm dưới dạng đồng đô la Mỹ và các giấy nợ của Chính phủ Mỹ.

Lý do chính khiến Trung Quốc nắm giữ đồng đô la Mỹ là vì chính sách tỷ giá của họ. Để giữ đồng nhân dân tệ khỏi lên giá (so với đồng đô la), ngân hàng trung ương Trung Quốc buộc phải bán nhân dân tệ và mua vào đồng đô la. Chính vì vậy mà Trung Quốc có lượng dự trữ ngoại tệ khổng lồ như hiện nay. Thay vì giữ toàn bộ số dự trữ này dưới dạng tiền mặt không sinh lãi, Chính phủ Trung Quốc đã chuyển một phần dự trữ của mình thành các sản phẩm tài chính (financial securities), trong đó một phần lớn là các sản phẩm tài chính do Mỹ bán ra (bao gồm cả các giấy vay nợ cho Bộ Tài chính Mỹ phát hành).

Vì lượng đô la và trái phiếu chính phủ Mỹ do Trung Quốc nắm giữ quá lớn, nếu Trung Quốc bán ra một phần lớn số dự trữ này thì ngay lập tức sẽ gây hậu quả xấu tới nền kinh tế Mỹ. Trong trường hợp đó, không những đồng đô la mất giá mà còn gây tâm lý hoảng loạn và thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài khác bán tháo các sản phẩm tài chính của Mỹ. Để đối phó lại động thái này, Mỹ sẽ phải tăng lãi suất, và nếu thế thì tăng trưởng của Mỹ sẽ bị tổn hại.

Có nhiều chuyên gia kinh tế lập luận rằng vì lợi ích của chính họ, Trung Quốc sẽ không muốn có bất cứ động thái nào làm các sản phẩm tài chính của Mỹ mất giá thêm. Lý do có hai mặt. Thứ nhất là các sản phẩm tài chính của Mỹ mất giá thì số dự trữ của Trung Quốc cũng bốc hơi. Thứ hai là nếu kinh tế Mỹ tiếp tục xấu đi thì cuối cùng cũng sẽ tác động ngược trở lại và kéo thụt lùi nền kinh tế Trung Quốc.

Tuy nhiên, Trung Quốc không có mấy lý do để phải bán tháo các sản phẩm tài chính của Mỹ mà họ nắm giữ nếu không có điểm nóng số 3.

Điểm nóng số 3: Mỹ đang tăng cường phát hành thêm đồng đô la và vay nợ với tốc độ kỷ lục

Từ khi bắt đầu lâm vào suy thoái, Quỹ Dự trữ Liên bang (FED) đã hết sức tìm cách vực dậy nền kinh tế yếu kém của Mỹ bằng cách hạ lãi suất nhằm bơm thêm thanh khoản vào hệ thống tài chính, khuyến khích dân Mỹ tăng tiêu dùng (nhờ vay mượn với lãi suất thấp) và khuyến khích doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Lượng đô la tính theo định nghĩa mở rộng (M2) hồi tháng 8-2007 chỉ có 7.300 tỉ, đến tháng 8-2008 đã lên tới 7.700 tỉ (tăng 5,4%). Sau sự kiện ngân hàng đầu tư Lehman Brothers sụp đổ, lượng cung tiền M2 tăng vọt lên tới mức 8.335 tỉ vào tháng 2-2009. Vào cuối tháng 7-2009, lượng cung tiền M2 nằm ở mức 8.350 tỉ, tăng 14% so với thời kỳ trước suy thoái.

Bên cạnh việc phát hành thêm tiền để khôi phục kinh tế, Chính phủ Mỹ còn tăng cường vay nợ để thực hiện các kế hoạch giải cứu hệ thống tài chính, kích cầu, và tới đây có thể là cải tổ hệ thống y tế. Việc này làm gánh nặng nợ quốc gia của Mỹ vốn đã tệ hại lại càng tệ hại hơn. Tổng số nợ quốc gia của Mỹ hiện nay đã lên tới 11.000 tỉ đô la. Theo thông báo của Tổng thống Obama hồi cuối tháng 8 vừa qua, thâm hụt ngân sách Mỹ ước tính trong vòng 10 năm tới sẽ tồi tệ hơn so với dự báo hồi đầu năm. Số chênh lệch này là 2.000 tỉ đô la.

Trước đây, chính quyền Obama ước tính từ nay tới năm 2019 tổng số thâm hụt của ngân sách liên bang sẽ là khoảng 7.100 tỉ nhưng tới nay số thâm hụt ước tính đã lên tới 9.050 tỉ. Mức thâm hụt như vậy sẽ đẩy tổng số nợ quốc gia lên tới tương đương 76,5% GDP nước Mỹ vào năm 2019.

Mặc dù tỷ lệ nợ quốc gia trên GDP này vẫn thấp hơn mức nợ của Mỹ sau Thế chiến thứ 2 nhưng nó vẫn là một bức tranh hết sức tồi tệ. Nhiều người, trong đó có người Trung Quốc, lo ngại rằng cuối cùng thì Chính phủ Mỹ sẽ phải phát hành thêm tiền để tài trợ thâm hụt. TS. Lê Hồng Giang trong một bài viết ngắn hồi đầu tháng 8 vừa rồi cũng nói tới vấn đề này. Theo ông Lê Hồng Giang, Chủ tịch Fed là ông Bernanke từ hồi tháng 3-2009 đã thực hiện việc phát hành trái phiếu Fed để lấy tiền mua các trái phiếu Chính phủ Mỹ. Nói cách khác, Fed đã “in” thêm tiền để tài trợ các khoản nợ của chính phủ. Kế hoạch này dự định sẽ chấm dứt vào giữa tháng 9 năm nay.

Việc in thêm tiền của nước Mỹ cuối cùng sẽ gây ra lạm phát và làm các khoản cho vay mất giá trị. Để bảo vệ các khoản cho vay này, Trung Quốc đã yêu cầu Mỹ phát hành các trái phiếu chính phủ có bảo lãnh chống lạm phát TIPS (Treasury Inflation Protected Securities) để họ có thể hoán đổi các khoản cho vay thường sang TIPS. Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc có hoán đổi được hết số trái phiếu chính phủ thường của Mỹ mà họ đang giữ sang TIPS thì tài sản dự trữ của họ vẫn bị rủi ro trước việc đồng đô la mất giá.

Thực tế này gây ra mối lo ngại lớn đối với Trung Quốc. Cho tới nay, có vẻ như Trung Quốc vẫn đang lưỡng lự ở thế tiến thoái lưỡng nan. Bán các sản phẩm tài chính của Mỹ ra cũng không ổn mà giữ thì cũng không xong. Điều này được phản ánh khá rõ trong số nợ quốc gia của Mỹ mà Trung Quốc nắm. Số nợ này tăng nhanh từ khoảng giữa năm 2008 tới tháng 11-2008. Từ tháng 11 tới nay, đà tăng này gần như chấm dứt. Hơn thế, số nợ do Trung Quốc nắm giữ này đã giảm vào tháng 4, sau đó lại tăng vào tháng 5 rồi lại giảm vào tháng 6. Sự dao động cho thấy Trung Quốc có vẻ như đang đứng giữa ngã ba đường.

Kết luận

Bài viết này tập trung phân tích một số điểm nóng trong quan hệ kinh tế Mỹ- Trung hiện nay. Các vấn đề chính được đề cập tới là tình trạng mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân thương mại, việc Trung Quốc đang sở hữu một số lượng lớn đô la và giấy nợ quốc gia của Mỹ, việc Mỹ phát hành thêm tiền với tốc độ nhanh và nợ nần ngày càng chồng chất khiến các tài sản mà Trung Quốc nắm có nguy cơ bốc hơi nếu xảy ra lạm phát ở Mỹ hay đồng đô la mất giá trên thị trường tiền tệ thế giới. Đây đều là những vấn đề nhức nhối và chưa có thể giải quyết được trong ngắn hay trung hạn. Điều này gây ra những bế tắc nhất định trong chính sách của các nước, nhất là của Trung Quốc trong chiến lược lựa chọn phương tiện dự trữ của họ.

 Tranh chấp thương mại Mỹ Trung (tháng 9/2009) : Vỏ xe  ( lốp xe), Phụ tùng ô tô và thịt gà
 
Người Mỹ trừng phạt

Người Mỹ dường như đã tiên liệu được hiện tượng hàng nhập khẩu Trung Quốc tràn lan sẽ gây thiệt hại cho sản xuất trong nước. Năm 2001, khi chấp thuận cho Trung Quốc gia nhập WTO, Quốc hội Mỹ đã đề ra một điều khoản ràng buộc gọi là khoản 421 (Section 421), theo đó, cho đến năm 2013, công nhân và doanh nghiệp Mỹ có quyền yêu cầu chính phủ bảo hộ khi bị thiệt hại bởi sự gia tăng đột ngột  hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc. Phía Trung Quốc đã đồng ý và cam kết tuân thủ sự ràng buộc này.

Tổng thống Barack Obama ra quyết định tăng thuế nhập khẩu vỏ xe Trung Quốc dựa theo thỏa thuận này, nhưng rõ ràng ông đã nhượng bộ một phần: thay vì áp thuế 55% cho năm đầu, 45% cho năm thứ hai, và 35% cho năm thứ ba như đề xuất của Trung tâm Thương mại quốc tế Mỹ, ông đã quyết định các mức thấp hơn, lần lượt là 35%, 30% và 25%.

Theo số liệu của Trung tâm Thương mại quốc tế Mỹ (ITC), trong bảy tháng đầu năm nay, Trung Quốc xuất khẩu vào Mỹ lượng vỏ xe trị giá 1,3 tỉ đô la Mỹ. Nhờ sức tiêu thụ của thị trường Mỹ, từ năm 2004-2008, sản lượng vỏ xe hơi và xe tải của Trung Quốc đã tăng 152%, dự kiến sẽ tăng thêm 16% trong năm nay. Tại thời điểm cuối năm 2008, Trung Quốc sản xuất 235,2 triệu chiếc vỏ xe, chỉ một phần ba trong số đó được tiêu thụ trong nước.
Tại Mỹ, lượng vỏ xe Trung Quốc nhập khẩu đã tăng gấp ba, từ 14,6 triệu chiếc năm 2004 lên 46 triệu chiếc năm 2008. Và cùng thời gian này, bốn nhà máy sản xuất vỏ xe của Mỹ bị phá sản, ba nhà máy khác dự tính đóng cửa trong năm nay vì không cạnh tranh nổi và tới cuối năm ngoái, 5.168 công nhân sản xuất vỏ xe của Mỹ đã bị mất việc. Tuy nhiên, theo số liệu của Bộ Thương mại Trung Quốc được dẫn lại trên báo China Daily, lượng vỏ xe hơi Trung Quốc nhập vào Mỹ đã giảm 16% trong nửa đầu năm nay, sau khi tăng 2,2% trong năm 2008.

Trung quốc trả đũa

Phản ứng của Trung Quốc khá nhanh nhạy và quyết liệt. Ngay sau khi Tổng thống Obama công bố quyết định tăng thuế, người phát ngôn Bộ Thương mại Trung Quốc Yao Jian đã ra tuyên bố nói rằng Mỹ “không chỉ vi phạm luật lệ của WTO mà còn đi ngược lại những cam kết của Mỹ tại các hội nghị thượng đỉnh G20, lạm dụng các biện pháp bảo hộ và đặt ra một tiền lệ rất xấu trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang khủng hoảng”. Và nước này dọa đưa vấn đề ra WTO xem xét.

Tuy nhiên, theo giới phân tích, khi tuyên bố như vậy, Trung Quốc cố tình tung hỏa mù để làm lạc hướng dư luận. Quyết định của Mỹ có cơ sở pháp lý là Section 421 đã được thống nhất giữa hai bên, chỉ áp dụng với sản phẩm Trung Quốc mà không có ý nghĩa với bất kỳ nước nào khác cho nên không có cơ sở để cho rằng đây là biện pháp bảo hộ thị trường.

Chừng như nhận ra rằng không thể phản bác người Mỹ về mặt pháp lý, Trung Quốc vội vã tiến hành các biện pháp ăn miếng trả miếng: tuyên bố tiến hành điều tra chống bán phá giá và trợ cấp bất hợp pháp mặt hàng phụ tùng xe hơi và thịt gà nhập khẩu từ Mỹ. Bộ Thương mại Trung Quốc nói rằng việc nhập khẩu các mặt hàng này gây thiệt hại cho Trung Quốc nhưng không nói rõ ai bị thiệt hại và mức độ như thế nào.

 Bộ này cũng không nhắc tới vụ vỏ xe hơi, mà nói rằng cuộc điều tra “dựa trên luật pháp Trung Quốc và luật lệ của WTO”. Tuy vậy, thời điểm công bố vụ điều tra của Trung Quốc gửi đi một tín hiệu không thể nhầm lẫn rằng đây là một vụ trả đũa đối với quyết định của Mỹ về tăng thuế vỏ xe. Giới quan sát tính ra rằng, tổng giá trị các mặt hàng xe hơi và thịt gà Mỹ xuất khẩu vào Trung Quốc, 800 triệu đô la Mỹ và 376 triệu đô la Mỹ, vừa bằng giá trị số vỏ xe hơi mà Trung Quốc xuất sang Mỹ.
 

 

 Giá cao su giảm

Sau khi Mỹ quyết định tăng thuế nhập khẩu vỏ xe hơi và xe tải hạng nhẹ của Trung Quốc từ 4% lên 35% bắt đầu từ ngày 26-9 tới, giá cổ phiếu của các công ty sản xuất vỏ xe Trung Quốc rớt thê thảm. Trong phiên giao dịch đầu tuần này, cổ phiếu của Công ty Double Coin giảm hết biên độ -10%, còn 19,01 nhân dân tệ/cổ phiếu; của Công ty Vỏ xe Quý Châu (Guizhou Tire) giảm 7,4%, còn 14,84 nhân dân tệ…

Giá cao su thiên nhiên - nguyên liệu chủ yếu sản xuất vỏ xe - cũng sụt giảm mạnh. Hôm thứ Ba, tại thị trường hàng hóa giao sau ở Tokyo, giá cao su giao tháng 2-2010, giảm 16,7 yen/ki lô gam, tương đương 7,8% - mức giảm sâu nhất trong tám tháng qua, còn 198,4 yen/ki lô gam, tương đương 2.195 đô la Mỹ/tấn. Tại thị trường Thượng Hải, giá cao su giao tháng 1-2010 cũng giảm hết biên độ -5%, còn 17.710 nhân dân tệ/tấn (tương đương 2.594 đô la Mỹ/tấn).

Trước khi xảy ra vụ tranh chấp, giới kinh doanh dự báo nhu cầu cao su của Trung Quốc năm nay sẽ tăng 100.000 tấn, lên 2 triệu tấn, tương đương 20% nhu cầu của thế giới. Trung Quốc chỉ sản xuất được khoảng 600.000 tấn, số còn lại phải nhập khẩu.

Sau khi vụ tranh chấp xảy ra, một số công ty nước ngoài sản xuất vỏ xe tại Trung Quốc để xuất sang Mỹ đã bắt đầu tính tới chuyện di dời nhà máy sang các nước khác để tránh né.

 

 

(Tác giả Trần Vinh Dự (hiện đang làm cho hãng ERSGroup Inc. Washington DC) // Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn)

  • 10 siêu đại gia Nga trong danh sách đen sẽ bị Mỹ trừng phạt?
  • Liên minh 04 nước đối phó Trung Quốc ở châu Á-TBD?
  • Mỹ - Trung: Đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng 'rút kiếm'
  • Mỹ- Trung và quan hệ 'nước lớn kiểu mới'
  • Trung Quốc chịu “mở cửa” kiểm toán cho Mỹ
  • Thế giới thực sự có bao nhiêu tỷ phú?
  • Kinh tế thế giới bớt u ám nhờ Đông Á
  • Obama và trò chơi 'hai mặt của đồng tiền'