Sự suy thoái, ngưng trệ không chỉ diễn ra trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, mà còn rất phổ biến trong lĩnh vực sản xuất, đặc biệt trong các ngành mũi nhọn của các nước phát triển như ô-tô, thép. Rồi thông qua các kênh thương mại, đầu tư và tài chính quốc tế, cuộc khủng hoảng đã tác động mạnh lên các nước đang phát triển, nhất là những nước phụ thuộc lớn hơn vào thị trường các nước phát triển, như Trung Quốc và nhiều nước châu Á.
Thế nhưng, nhờ áp dụng kịp thời các biện pháp giải cứu và kích thích kinh tế đơn phương ở mỗi nước hoặc trong sự phối hợp với các tổ chức tài chính quốc tế và giữa các nước với nhau, từ giữa năm 2009, nền kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu phục hồi. Tốc độ gia tăng tỷ lệ thất nghiệp ở các nước Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đã chậm lại. Ở một số nước, như Nga, Xin-ga-po... tỷ lệ thất nghiệp đã giảm. Có được kết quả bước đầu này là do những dấu hiệu tốt từ khu vực chế tạo - số lượng đơn đặt hàng đã được gia tăng ở các nền kinh tế chủ chốt, như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước châu Âu, làm cho chỉ số PMI(H) ở nhiều nước đã vượt qua mức 50 và gia tăng liên tục trong nhiều tháng. Trên nền tảng đó, tình hình thị trường tài chính và chứng khoán thế giới bắt đầu được cải thiện, hoạt động của hệ thống ngân hàng ngay cả ở các nước khởi nguồn của cuộc khủng hoảng cũng đã được cải thiện và bước đầu lấy lại được lòng tin của người dân.
Như vậy, sự phục hồi đến sớm đã làm cho bức tranh kinh tế thế giới năm 2009 có được những nét khởi sắc nhất định. Theo tính toán của các chuyên gia Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 của cả thế giới chỉ bị giảm 1,1%, trong đó của các nước phát triển bị giảm 3,4%, còn nhóm các thị trường đang lên và các nước đang phát triển ước tính tăng 1,7% so với năm 2008. So với mức dự báo của IMF vào tháng 7-2009, mức dự báo hiện tại về tốc độ tăng trưởng GDP thế giới đã được cải thiện 0,3%. Hơn nữa, theo dự báo dài hạn được thể hiện trên đồ thị 1, kinh tế thế giới sẽ đạt tốc độ tăng trưởng dương ở mức 3,1% vào năm 2010 và tiếp tục tăng trong những năm sau đó. Và như vậy, chu kỳ phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay thật sự đang được diễn ra theo mô hình chữ V.
Sự cải thiện trong tăng trưởng của nền kinh tế thế giới trước hết được bắt nguồn từ việc mở rộng sản xuất của các nền kinh tế châu Á, sự ổn định và phục hồi từ từ ở hầu hết các khu vực còn lại của thế giới. Do hội nhập khá sâu vào nền kinh tế thế giới, nên tất cả các nước châu Á, đặc biệt là các nước Ðông Á, đều ngay lập tức chịu thiệt hại khá nặng nề từ cuộc khủng hoảng toàn cầu, do hai kênh thương mại và tài chính quốc tế đều bị đóng băng. Thế nhưng, nhờ áp dụng các biện pháp kích thích kinh tế kịp thời, đồng thời, nhờ sự khởi sắc của ngành thương nghiệp bán lẻ ở các nước phát triển vào những tháng cuối năm 2009, các nước Ðông Á đã nhanh chóng lấy lại được đà tăng trưởng. Các gói kích thích kinh tế toàn diện, đủ lớn và kịp thời đã nhanh chóng cải thiện được thực trạng tài chính của chính phủ, của các ngân hàng và của các công ty. Việc hạ lãi suất và nhiều giải pháp kích thích kinh tế khác đã làm gia tăng cầu nội địa của các nước Ðông Á. Khi được kết hợp với sự gia tăng cầu nước ngoài vì xuất khẩu đã phục hồi, tăng trưởng kinh tế ở Ðông Á đã phục hồi nhanh hơn các khu vực còn lại của thế giới. Dự tính, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của các nước đang phát triển châu Á năm 2009 sẽ là 6,2%, trong đó của Trung Quốc là 8,5%. Có thể nói thêm rằng tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc tuy bị giảm so với năm 2008, song đây là một sự suy giảm có ý nghĩa, bởi nước này đang chủ trương đối phó sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế.
Sự phục hồi ngày càng rõ rệt hơn ở các nước phát triển - nơi khởi nguồn của cuộc khủng hoảng. Theo số liệu của IMG, tại Mỹ, tốc độ tăng trưởng GDP thực tế năm 2009 ước chỉ giảm 2,7%, mặc dù đã bị giảm sút tới hơn 6% vào quý I. Tốc độ suy giảm kinh tế năm 2009 ở khu vực đồng ơ-rô và Nhật Bản được dự báo là trầm trọng hơn so với ở Mỹ và tương ứng là -4,2% và -5,4%. Tuy nhiên mức dự báo này đã được cải thiện đáng kể so với mức dự báo vào tháng 7-2009 - cao hơn tới 0,6% đối với cả hai khu vực.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động lên các nền kinh tế đang phát triển theo ba kênh chính. Ðó là thương mại, tài chính và đầu tư quốc tế và nguồn tiền chuyển về nước. Do mức độ phụ thuộc của quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước vào các kênh tác động trên là khác nhau, khả năng khắc phục những hậu quả tiêu cực của cuộc khủng hoảng và sự phục hồi kinh tế của họ cũng khác nhau. Trong nhóm các nước thuộc Cộng đồng Các quốc gia độc lập, những nước xuất khẩu năng lượng ròng (bao gồm A-déc-bai-gian, Ca-dắc-xtan, Nga, Tuốc-mê-ni-xtan và U-dơ-bê-ki-xtan) có mức giảm tăng trưởng thấp hơn so với các nước nhập khẩu năng lượng ròng (bao gồm Ác-mê-ni-a, Bê-la-rút, Cư-rơ-gư-xtan, Môn-đô-va, Tát-gi-ki-xtan và U-crai-na) - tương ứng là -6,1% và -9,6%. Một nguyên nhân khá cơ bản làm cho sự phục hồi chậm hơn ở phân nhóm thứ hai vì phát triển kinh tế ở nhiều nước trong số họ phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tiền chuyển về nước.
Ở khu vực Mỹ la-tinh và Ca-ri-bê, nước có được sự phục hồi nhanh nhất là Bra-xin và nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất và được dự báo là sẽ có sự phục hồi chậm nhất - khoảng giữa năm 2010 - là Mê-hi-cô. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, sự khác nhau này phụ thuộc chủ yếu và sự khác nhau trong cơ cấu và xu hướng xuất khẩu và quan trọng hơn cả là mức độ liên kết kinh tế trước hết trong khu vực - Mê-hi-cô tham gia NAFTA và là "sân sau" của Mỹ và Ca-na-đa. Trong nhóm các nước ở khu vực châu Phi và Trung Ðông, những nước xuất khẩu nguyên liệu, năng lượng ròng có sự phục hồi chậm hơn so với các nước nhập khẩu ròng nhóm hàng này. Bởi lẽ, cuộc khủng hoảng toàn cầu đã làm cho giá nguyên liệu, năng lượng, đặc biệt là dầu mỏ, giảm đáng kể. Trước khi xảy ra khủng hoảng, giá dầu mỏ đạt giá đỉnh điểm là khoảng 150 USD/thùng. Khi khủng hoảng xảy ra, nó đã giảm xuống dưới 40 USD/thùng. Hiện nay, giá dầu mỏ đang dao động ở mức 70-80 USD/thùng. Ngoài ra, trong các nước xuất khẩu dầu mỏ, các ngành sản xuất phi dầu mỏ chịu ảnh hưởng khá nặng nề của cuộc khủng hoảng. Vì thế, việc khắc phục hậu quả trong các ngành này đòi hỏi nhiều cố gắng hơn và thời gian lâu hơn.
Những vấn đề đặt ra từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Từ thực tiễn về diễn biến của cuộc khủng hoảng, các biện pháp ứng phó của các chính phủ và công ty và thực trạng phát triển hiện tại của nền kinh tế thế giới, có thể chỉ ra một số vấn đề cần được quan tâm giải quyết sau đây:
Thứ nhất, vấn đề liên quan chức năng giám sát của chính phủ, tự do hóa hệ thống ngân hàng và tài chính. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng tài chính từ Mỹ là sự đổ vỡ của thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp, dẫn đến sự đổ vỡ tín dụng của nhiều ngân hàng lớn không chỉ ở Mỹ, như Lehman Brothers, Morgan Stanley, AIG, Citigroup..., mà còn ở nhiều nước châu Âu, châu Á. Với tư cách là một nước đầu tàu trong trường phái tự do hóa kinh tế và rất nhiều kinh nghiệm quản lý thị trường tự do trong nhiều thập kỷ qua, các nhà quản lý của Mỹ đã không thể cứu vãn nổi hệ thống ngân hàng và tài chính của mình. Các nhà phân tích cho rằng, vấn đề nằm ở chỗ cơ chế giám sát của Mỹ cũng như các nước phát triển khác đã chưa được phát triển tới mức cần thiết, chưa tương xứng với mức độ tự do hóa tài chính. Vấn đề đặt ra là làm thế nào có thể xây dựng được cơ chế giám sát phù hợp, hiệu quả, khi mà sự lưu chuyển các dòng vốn quốc tế khá đa dạng, được diễn ra trên diện rộng và với tốc độ cao như hiện nay?
Thứ hai, nguy cơ gia tăng thâm hụt ngân sách. Cho đến nay, các chính phủ và các tổ chức tài chính trên thế giới đã và đang thực hiện nhiều gói giải cứu và kích thích kinh tế khác nhau, trị giá lên đến hàng nghìn tỷ USD. Ðánh giá sơ bộ cho thấy các biện pháp giải cứu này là khá kịp thời và có hiệu quả. Tuy nhiên, do nền kinh tế bị tổn thất khá nặng nề, các gói kích thích kinh tế vẫn cần phải được tiếp tục trong tương lai, nhằm bảo đảm tăng trưởng ổn định. Do các gói kích thích được dùng chủ yếu vào việc gia tăng đầu tư công, nên khó tránh khỏi nguy cơ gia tăng thâm hụt ngân sách. Trong bối cảnh đó, chính sách thắt chặt tiền tệ nhiều khả năng sẽ được áp dụng trong tương lai gần.
Thứ ba, giải quyết vấn đề thất nghiệp còn nhiều nan giải. Cho đến thời điểm hiện tại, ở một số nước, tỷ lệ thất nghiệp vẫn gia tăng. Theo thống kê của OECD, tỷ lệ thất nghiệp hiện nay của nhóm nước này là khoảng 8,5%. Ðây là một tỷ lệ khá cao. Song vấn đề không phải chỉ dừng ở đó! Với một mức thiệt hại lớn về tài chính diễn ra trong suốt thời kỳ khủng hoảng vừa qua, đồng thời nhu cầu vốn lớn trong tương lai, khi nhiều công ty đang có ý định chuyển đổi cơ cấu sản xuất, chiến lược được lựa chọn nhiều hơn cả của các công ty là tiết kiệm nguồn nhân lực. Ðiều đó có nghĩa là mặc dù nền kinh tế thế giới có nhiều dấu hiệu phục hồi, song cơ hội việc làm sẽ có nhiều khả năng không gia tăng theo cùng nhịp độ đó. Thách thức đối với thị trường lao động thế giới là chuẩn bị nguồn nhân lực để có thể đón nhận được làn sóng chuyển dịch cơ cấu mới - sang nền kinh tế xanh chẳng hạn.
Thứ tư, nguy cơ gia tăng các biện pháp bảo hộ thị trường trong nước và sự can thiệp của chính phủ. Một nhân tố cơ bản thúc đẩy các nước, nhất là các nước đang phát triển, tham gia làn sóng tự do hóa và toàn cầu hóa kinh tế hiện nay là nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong nước. Mặt khác, khi nền kinh tế trong nước bị tổn thương, phản ứng tự nhiên là các chính phủ, bất kể là phát triển hay đang phát triển, sẽ phải áp dụng các biện pháp bảo vệ. Lời kêu gọi của Tổng thống Mỹ B.Ô-ba-ma "Buy American" (Người Mỹ mua hàng Mỹ), hoặc các biện pháp hỗ trợ tín dụng được đưa ra trong các gói kích thích kinh tế, là biểu hiện của phản ứng này. Theo đánh giá của các chuyên gia thương mại quốc tế, đối với nhiều nước trên thế giới, cuộc khủng hoảng toàn cầu lần này giống như cuộc khủng hoảng thương mại nhiều hơn. Do phụ thuộc quá lớn vào trao đổi thương mại và đầu tư với bên ngoài, nền kinh tế của họ đã bị thiệt hại chủ yếu từ hai lĩnh vực này. Tuy nhiên, các chuyên gia WTO cho rằng, các biện pháp mà các nước đang áp dụng hiện nay để hạn chế tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng mang tính chất bảo vệ nhiều hơn và là tạm thời. Mặc dù vậy, họ vẫn kêu gọi các nước phải quan tâm hơn đến việc thực hiện các cam kết về tự do hóa thương mại toàn cầu và khu vực của mình, trong đó hoàn tất Vòng đàm phán Ðô-ha cần phải được xếp là một mục tiêu ưu tiên.
Thứ năm, những thách thức từ việc lựa chọn chính sách. Thách thức lớn nhất đối với các chính phủ trong quá trình hoạch định chính sách là sự hài hòa giữa mục đích ngắn hạn và trung hạn. Việc các nước áp dụng các gói kích thích kinh tế trước mắt giúp cho nền kinh tế nhanh chóng đạt được sự phục hồi, song về trung hạn, sẽ tạo sức ép về thâm hụt ngân sách và gia tăng nợ nần. Hơn nữa, các gói kích thích kinh tế chủ yếu khuyến khích cầu đầu tư, đặc biệt là đầu tư cơ sở hạ tầng và đầu tư công khác, mà ít chú ý đến đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Chính vì thế, để hướng tới một sự phục hồi ổn định hơn, nhiều ý kiến cho rằng các gói kích thích cần được duy trì thêm một thời gian nữa. Như vậy, sự lựa chọn này làm gia tăng sức ép cho chính phủ, trước hết là về mặt ngân sách, đồng thời có nguy cơ làm chậm lại quá trình cải tổ cơ cấu nhằm hướng tới một sự phát triển bền vững lâu dài hơn.
Những vấn đề toàn cầu và nhu cầu về một sự cải tổ cơ cấu
Có thể nói trong suốt thập kỷ qua, những vấn đề toàn cầu như vấn đề bảo vệ và phát triển môi trường bền vững, vấn đề an ninh phi truyền thống (an ninh con người, an ninh năng lượng, an ninh lương thực) đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều các đối tác khác nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế - các chính phủ, các công ty, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và đặc biệt là cộng đồng dân cư. Biến đổi khí hậu, bảo đảm lương thực, tìm kiếm năng lượng thay thế... đang là những vấn đề trọng tâm của các hoạt động quốc tế và chúng đang đòi hỏi các chính phủ phải có các phản ứng chính sách thích hợp. Bên cạnh đó, kinh nghiệm chống khủng hoảng của các nước Ðông-Nam Á từ thập kỷ trước cho thấy các nước này đã đạt được sự phục hồi nhanh chóng và bền vững sau khủng hoảng là nhờ thực hiện các biện pháp cải tổ cơ cấu mạnh mẽ. Xuất phát từ đó, hiện nay, ý tưởng về một nền kinh tế xanh đang được nhiều nước hướng tới, bởi lẽ nó vừa đáp ứng được đòi hỏi giải quyết vấn đề môi trường toàn cầu, vừa tạo cơ hội cho một sự chuyển dịch sang một cơ cấu sản xuất mới nhằm đạt được tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này đòi hỏi nhiều nguồn lực khác nhau - công nghệ, kỹ thuật, tài chính, nguồn nhân lực. Vì thế, đây sẽ là một thách thức lớn đối với toàn bộ thế giới, chứ không phải của bất kỳ một nước riêng lẻ nào.