Dấu hiệu đáng mừng
- Tại ARF vừa rồi, 12 quốc gia đã cùng lên tiếng về vấn đề an ninh Biển Đông và mong muốn thúc đẩy cơ chế hợp tác đa phương để giải quyết vấn đề này. Ông lí giải như thế nào về động thái mới này?
Đây là dấu hiệu tốt đẹp, là sự kiện có ý nghĩa không chỉ về mặt chính trị mà còn có giá trị thực tiễn về mặt pháp lý quốc tế. Bởi vì:
Nó thể hiện nguyện vọng, ý chí không những của các quốc gia tham gia diễn đàn ARF mà còn là ý chí nguyện vọng của cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến an ninh trong khu vực Biển Đông.
Điều này càng có ý nghĩa khi thời gian gần đây, có nước đã có các hoạt động vi phạm các thỏa thuận đã đạt được khiến cộng đồng quốc tế thấy tình hình có khả năng bất ổn mới, gây ảnh hưởng đến an ninh khu vực Biển Đông.
Việc ủng hộ cơ chế đa phương cũng hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp trên biển. Trong việc giải quyết các tranh chấp này, các nguyên tắc và thực tiễn quốc tế đã có nhiều phương pháp, cách thức thỏa thuận. Một trong những cách thức thực tiễn quốc tế là áp dụng cơ chế hợp tác đa phương, bởi nó liên quan đến lợi ích không những của các quốc gia có yêu sách chủ quyền lãnh thổ và phạm vi các vùng biển và thềm lục địa mà còn liên quan đến lợi ích của các quốc gia khác trên thế giới có nhu cầu vận chuyển hàng hóa qua tuyến đường hàng hải quốc tế quan trọng này.
Ảnh VNE |
Hợp tác đa phương để giải quyết nghĩa là các nước có thể thông qua các tổ chức quốc tế, cơ quan tài phán quốc tế, hội nghị hội thảo, cả chính trị - ngoại giao... Sự lên tiếng của 12 quốc gia là dấu hiệu đáng mừng, bởi nhiều nước cùng lên tiếng là cơ hội tốt cho các nước có liên quan trong khu vực giải quyết vấn đề tranh chấp, đóng góp cho hòa bình và ổn định, đảm bảo lợi ích chung của khu vực và thế giới.
Linh hoạt các phương thức song phương, đa phương...
- Mặc dù đã hợp tác đa phương với ASEAN trong giải quyết vấn đề Biển Đông, với tuyên bố về Ứng xử trên Biển Đông DOC năm 2002, thế nhưng, trong phát biểu mới đây, Ngoại trưởng Trung Quốc cũng nói, không phải vì Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền với một vài nước ASEAN mà Biển Đông trở thành vấn đề giữa Trung Quốc và ASEAN. Và ASEAN không phải cơ chế thích hợp để giải quyết. Quan điểm của ông thế nào?
Thực ra, các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, phải phân loại thành mấy dạng tranh chấp: tranh chấp chủ quyền với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa; tranh chấp ở vùng chồng lấn các vùng biển và thềm lục địa giữa các quốc gia liền kề hoặc đối diện nhau qua Biển Đông. Có những tranh chấp chỉ liên quan đến hai nước: tranh chấp chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa chỉ là giữa Việt Nam và Trung Quốc, trong khi đó, tranh chấp chủ quyền ở quần đảo Trường Sa là tranh chấp 5 nước 6 bên. Với những vấn đề gắn với nhiều bên, phải giải quyết bằng cơ chế đa phương, không thể chỉ theo phương thức 1+1 như Trung Quốc nói.
Về các vùng nước và thềm lục địa của các nước gần nhau và đối diện nhau, cũng có vùng tranh chấp giữa hai nước, như vùng Vịnh Bắc Bộ mà hai nước Việt Nam và Trung Quốc về cơ bản đã giải quyết xong. Thế nhưng, cũng có những vùng liên quan đến ba nước như vùng Vịnh Thái Lan, và có vùng liên quan đến nhiều nước.
Lại có những tranh chấp không trực tiếp liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, ranh giới trên biển mà liên quan đến quyền tự do hàng hải, đi lại trên biển, trong vùng biển cả, gắn với rất nhiều quốc gia.
Ảnh Lê Anh Dũng. |
Tùy vào từng tranh chấp, ở từng vùng, với tính chất và phạm vi cụ thể... để xem xét mức độ tranh chấp và cách thức giải quyết song phương và đa phương. Việc tuyên bố ASEAN không phải là cơ chế thích hợp giải quyết tranh chấp với Trung Quốc, theo tôi là không phù hợp với thực tế, thiếu tính khách quan.
Tại sao tôi có thể nói như vậy? Như mọi người đều biết, Biển Đông là một khu vực biển có liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích của hầu hết các nước ASEAN. Trung Quốc đã đưa ra đường ranh giới trên biển bao trọn 80% diện tích Biển Đông rõ ràng đã đụng chạm đến chủ quyền, quyền chủ quyền của các nước ven Biển Đông, đụng chạm đến quyền tự do hàng hải, hàng không trong vùng biển cả. Vì vậy, các quốc gia có liên quan phải có quyền và có cả nghĩa vụ tham gia giải quyết vì lợi ích chính đáng của mình.
Nước lớn luôn đóng vai trò
- Những động thái của các nước lớn liên quan đến vấn đề Biển Đông sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tình hình Biển Đông và tới quá trình tìm giải pháp cho vấn đề này, thưa ông?
Rõ ràng, sự quan tâm của các quốc gia, dù lớn, bé, trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến Biển Đông, các nước cần hoan nghênh và đón mừng, nếu sự quan tâm ấy là muốn đóng góp, tác động có ích, giúp các bên có tranh chấp giải quyết vấn đề nhanh chóng, dứt điểm, tạo sự ổn định, hòa bình, an ninh bền vững của khu vực, theo cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Các nước nhất là nước lớn, quan tâm đến, muốn thể hiện vai trò nước lớn trong việc giải quyết vấn đề, vì an ninh chung của khu vực, thế giới là đáng hoan nghênh. Các bên tranh chấp đều cần hết sức tranh thủ.
Thực ra, với các vấn đề liên quan đến vận mệnh hòa bình quốc tế, nước lớn luôn có vai trò. Nếu họ tham gia để có tiếng nói ủng hộ, tìm ra chân lý, sự thật vấn đề, giải pháp thỏa đáng, các bên đều chấp nhận được là điều hay.
Tuy nhiên, một khi nước nào đó quan tâm và can dự với động cơ đi ngược lại ý chí, nguyện vọng của cộng đồng quốc tế: vì hòa bình và ổn định, cộng đồng sẽ nhận biết và tìm mọi cách để ngăn chặn.
Dù là nước nào chăng nữa, chúng ta cũng không để họ có hành động vì động cơ không vì hòa bình, ổn định, phát triển chung.
- Mới đây, lần đầu tiên, Indonesia, nước không có tranh chấp chủ quyền, đã gửi công hàm lên LHQ chính thức phản đối đường lưỡi bò của Trung Quốc. Điều này có ý nghĩa như thế nào đối với Việt Nam và các nước trực tiếp có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông?
Indonesia là quốc gia nằm ngoài khu vực tranh chấp chủ quyền nóng bỏng, có tính nhạy cảm trên Biển Đông. Họ gửi công hàm phản đối, cho thấy, đường ranh giới trên biển mà Trung Quốc tuyên bố đã lạm vào phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Indonesia. Vì vậy họ lên tiếng phản đối là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết.
Hơn nữa, là nước quan trọng trong ASEAN, Indonesia không thể không có tiếng nói bảo vệ công lý, chống lại các yêu sách và hoạt động trái với luật pháp, thực tiễn quốc tế, đặc biệt là trái với các thỏa thuận, cam kết đã đạt được trong khu vực giữa các nước có liên quan trong thời gian qua.
Minh bạch để tạo đồng thuận
- Theo ông, đâu là lựa chọn chính sách cho Việt Nam vào thời điểm này? Đâu là vấn đề nguyên tắc mà Việt Nam phải theo đuổi?
Tình hình hiện nay khá phức tạp, nhạy cảm, không chỉ về tranh chấp chủ quyền, ranh giới biển, mà cả vấn đề chiến lược trong cán cân quốc tế, hoạt động chính trị, pháp lý, quân sự trong khu vực, quốc tế.
Sự phức tạp của tình hình đòi hỏi chính trị gia cân nhắc cẩn trọng, có sự xử đúng, bảo vệ lợi ích chủ quyền của mình, đóng góp cùng các nước duy trì sự ổn định trong khu vực, đảm bảo an ninh qua cơ chế có được.
Với Việt Nam, trước hết, ta cần có tiếng nói giải quyết vấn đề, có sự minh bạch, rõ ràng về chính sách, không mập mờ.
Việt Nam cần hết sức tranh thủ, tận dụng và phát huy tất cả các kênh giải quyết tranh chấp hiện có, cả song phương và đa phương.
Bất kì phương thức nào, dù song phương hay đa phương nếu có lợi, Việt Nam cần hết sức tận dụng, gia công xây dựng, nghiên cứu áp dụng.
Việt Nam cần áp dụng linh hoạt các phương cách, vì thực tiễn quốc tế cho phép áp dụng nhiều giải pháp để giải quyết vấn đề, miễn là giải quyết nhanh chóng, ổn định. Đó là cách tiếp cận đúng đắn của mình.
Việt Nam cùng ASEAN và Trung Quốc đã có tuyên bố về nguyên tắc ứng xử trên Biển Đông, cần đẩy nhanh việc cụ thể hóa bằng văn kiện pháp lý mang tính ràng buộc. Chỉ dừng ở nguyên tắc, chúng ta sẽ không giải quyết được triệt để vấn đề.
Hơn nữa, giải quyết vấn đề Biển Đông không thể theo ý chí chủ quan, không có nghiên cứu kĩ lưỡng. Phải tìm hiểu, lắng nghe ý kiến khác nhau của nhiều bên, tranh thủ tiếng nói của cộng đồng quốc tế để có cơ sở khách quan, khoa học giúp cho việc đưa ra được các giải pháp hữu hiệu nhất.
Nếu chỉ chủ quan với những thông tin hiện có, thì tất yếu tạo ra tình trạng bất ổn, không thể giải quyết tranh chấp cơ bản và nhanh chóng được.
Thêm nữa, phải làm sao đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục cho nhân dân, cán bộ, hiểu sâu về vấn đề Biển Đông, tạo tiếng nói ủng hộ, đồng thuận trong khi tìm và thỏa thuận các giải pháp, dù là tạm thời hoặc cơ bản.
Giải quyết vấn đề lớn, đụng chạm lợi ích to lớn, chủ quyền thiêng liêng, không thể không có đồng thuận. Muốn đồng thuận phảp có thông tin, phải có tuyên truyền, giáo dục để có nhận thức đúng đắn, khách quan.
Vả lại, bất kì nước nào đụng đến an ninh quốc phòng, chủ quyền lãnh thổ, cần tạo sức mạnh cho mình: sức mạnh trong kiểm tra, kiểm soát, tuần tra, ứng phó với mọi tình huống có thể xảy ra đụng đến lợi ích của mình. Không đầu tư thích đáng tạo sức mạnh trong điều kiện cho phép, Việt Nam sẽ gặp khó khăn. Bởi vì trong thực tiễn để bảo vệ cho lợi ích chính đáng của mình, các quốc gia không thể không quan tâm đến tiềm lực của mình.
------------------------------------------------------
Biển Đông với mối quan hệ Mỹ - Trung
Tác giả: BRANTLY WOMACK - GS CHÍNH TRỊ HỌC, ĐH VIRGINIA, MỸ
----------
Trường Sa từ lâu được những người đi biển biết đến với cái tên "vùng biển dữ" với nhiều dải đá ngầm và khu vực Biển Đông cũng đang trở nên nguy hiểm cho các hoạt động ngoại giao. - GS Brantly Womack, ĐH Virginia, Mỹ viết cho Tuần Việt Nam.
Do những xung đột trong tuyên bố chủ quyền, Biển Đông đã trở thành tâm điểm của các mối quan ngại giữa Trung Quốc, Đông Nam Á và Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã bày tỏ "lợi ích quốc gia" của Mỹ ở khu vực này trong chuyến thăm Hà Nội mới đây của bà.
Nhưng Biển Đông và quần đảo Trường Sa nói riêng không có vẻ là điểm lõi của sự chú ý. Nguyên do là khu vực này có sự chồng lấn về các tuyên bố chủ quyền và không có dân bản địa và cũng không có nguồn lực đáng kể dưới lòng đất. Trữ lượng dầu và khí ở khu vực này vẫn còn đợi để chứng minh và bất kể trong trường hợp nào thì các bên cũng sẽ gặp thách thức về công nghệ và hậu cần để có thể sản xuất dầu khí ở khu vực này.
Bất cứ nước nào, dù là Mỹ hay Trung Quốc, nếu có tham vọng chiếm giữ quần đảo Trường Sa bằng vũ lực, thì họ cũng sẽ gặp khó khăn để phát triển với các đường cung cấp dễ bị tổn thương và chi phí khổng lồ cho các mối quan hệ khu vực.
Bất kì nước nào sử dụng các tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông để cản trở việc qua lại không gây hại của thương mại quốc tế thì cũng sẽ vi phạm luật quốc tế. Cách tiếp cận hợp lý duy nhất để phát triển là cách thức đã được chỉ ra trong Tuyên bố về Ứng xử tại Biển Đông năm 2002: hợp tác hòa bình.
Vậy vì sao tranh chấp ở Biển Đông giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ngày càng trở nên gay gắt hơn kể từ năm 2008 và tại sao Mỹ lại gia tăng mối quan tâm đối với khu vực đang tranh cãi này?
Ảnh Lê Anh Dũng. |
Câu trả lời không nằm ở chi tiết của cuộc xung đột, mà nằm ở bức tranh lớn hơn của các mối quan hệ khu vực và toàn cầu kể từ khi khủng hoảng toàn cầu với sự bất định kinh tế bắt đầu. "Sự trỗi dậy hòa bình" của Trung Quốc đã thực sự mạnh mẽ vào thời điểm năm 2008, nhưng với cuộc khủng hoảng, nền kinh tế Trung Quốc tạo được bước nhảy mới, cao hơn, một cách hòa bình. Tăng trưởng GDP của Trung Quốc giảm xuống còn 8,7% vào năm 2009 nhưng đó là sự trình diễn tốt hơn nhiều so với rất nhiều nền kinh tế khác trong khủng hoảng, và khoản dự trữ tiền mặt khổng lồ giúp cho nước này có khả năng tiến hành gói kích thích kinh tế trong nước khổng lồ song song với việc mua các tài nguyên thiên nhiên ở nước ngoài trên quy mô lớn. Hơn nữa, viễn cảnh của sự tăng trưởng tiếp theo vẫn rõ ràng hơn cho Trung Quốc nếu so với bất kì nền kinh tế lớn mạnh nào khác.
Biển Đông không đóng vai gì trong sự thịnh vượng của Trung Quốc cũng như trong những khó khăn mà các quốc gia khác phải đối mặt. Tuy nhiên, bước nhảy mà Trung Quốc đạt được mang lại hai hiệu ứng. Một là, nó là gia tăng khoảng cách kinh tế giữa Trung Quốc với các quốc gia láng giếng Đông Nam Á, khiến cho các nước cảm thấy bị đặt vào thế nguy hiểm và dễ bị tổn thương trước Trung Quốc.Hai là, cùng lúc đó, nó giúp rút ngắn khoảng cách kinh tế giữa Trung Quốc và Mỹ, khiến cho Mỹ lo lắng nhiều hơn về việc Trung Quốc trở thành đối thủ và người thách thức tiềm năng.
Hai thay đổi này trong vị thế kinh tế tương đối của Trung Quốc cũng ảnh hưởng mạnh mẽ lên quan hệ chính trị, quân sự của nước này.
Sở hữu một mối quan hệ bất đối xứng với Trung Quốc không phải là điều gì mới mẻ với Đông Nam Á. Các mối quan hệ này dựa trên nền tảng là quan hệ triều cống mang tính lịch sử và kể từ 1990 một mối quan hệ hiện đại đã được phát triển, dù bất đối xứng nhưng mang lại lợi ích cho cả hai bên.
Cả Trung Quốc và Đông Nam Á đã quản lý tốt mối quan hệ mới này. Trung Quốc cũng đã có nhiều điều chỉnh để xây dựng khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc, và Đông Nam Á đã cẩn trọng với lợi ích cốt lõi của Trung Quốc và sẵn lòng can dự với Trung Quốc về mặt kinh tế và chính trị.
Tuy nhiên, kể từ năm 2008, Trung Quốc càng trở nên thu hút hơn bởi vì Trung Quốc giúp cân bằng tính dễ bị tổn thương của Đông Nam Á trước nền kinh tế toàn cầu mà trung tâm là Mỹ, và Trung Quốc hiện lên như một thực thể mạnh trong khi kinh tế toàn cầu lại gặp rắc rối.
Đông Nam Á thích thú với một Trung Quốc ở tầm khu vực với tư cách là láng giềng tốt, và khu vực này cũng lo lắng về khả năng trở thành sân sau của một Trung Quốc ở tầm toàn cầu.
Trong khi đó, các hoạt động ngoại giao của chính Trung Quốc lại không làm dịu đi những lo lắng. Trung Quốc đã quản lý hiệu quả và cẩn trọng các vấn đề cũng như nguồn lực của mình trong thập kỉ qua. Lúc này, sai lầm của quốc gia khác, nhất là Mỹ đã chứng tỏ sự khôn ngoan trong chính sách trước đây của Trung Quốc.
Sự cẩn trọng và nhún mình sau thời điểm 1989 mà Đặng Tiểu Bình khuyến nghị đang mang lại một thái độ tự hào và quyết đoán hơn. Tuyên bố Biển Đông là "lợi ích cốt lõi" là một ví dụ quan trọng về thái độ mới này.
Ảnh Lê Anh Dũng. |
Hơn nữa, dự trữ của Trung Quốc trao cho nước này cơ hội đầu tư chưa từng có vào các nước Đông Nam Á. Dưới góc nhìn của Trung Quốc, các dự án này là cùng thắng và mang lại lợi ích cho cả hai bên. Điều này không hẳn là không đúng nhưng mối lo ngại và tính dễ bị tổn thương gia tăng của các nước láng giềng khiến họ không sẵn lòng cam kết nhiều hơn về các nguồn lực của mình. Điều mỉa mai là bởi vì Trung Quốc có nhiều điều để chào mời hơn, các đối tác của nước này càng ít sẵn lòng để chấp thuận những chào mới đó.
Sự khác biệt giữa lợi ích của các nước Đông Nam Á và các nước Trung Quốc được thể hiện rõ trong vấn đề Biển Đông và các đảo, quần đảo.
Biển Đông là không gian chung (common space) được Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và căn cứ hải quân mới Yulin ở đảo Hải Nam đưa lại cho Trung Quốc khả năng tiếp cận quân sự để hỗ trợ cho tuyên bố chủ quyền đó.
Hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đang trong tranh chấp và mỗi bên tuyên bố chủ quyền, bao gồm cả Trung Quốc, đều sử dụng cụm từ "lãnh thổ bất khả xâm phạm" để mô tả tuyên bố chủ quyền và khẳng định rằng tuyên bố của bên còn lại là "hoàn toàn không có cơ sở". Những ngôn từ mang tính dân tộc chủ nghĩa này đã loại trừ khả năng thỏa hiệp về nguyên tắc và hàm ý về sự sẵn sàng sử dụng phương cách vũ lực bất chấp Tuyên bố về Ứng xử trên Biển Đông năm 2002.
Sự không sẵn lòng của Trung Quốc trong việc đưa DOC trở thành một thỏa thuận mang tính ràng buộc cao hơn làm gia tăng mối nghi ngờ do những tuyên bố của nước này tạo ra.
Với việc Trung Quốc gia tăng sức mạnh nhanh chóng, rất dễ dàng để Biển Đông trở thành điểm nóng xung đột, bất chấp việc sẽ không có gì nhiều để gặt hái từ xung đột ấy và gần đây không có khủng hoảng nào đáng kể ở khu vực này.
Mỹ không có tuyên bố chủ quyền đối với Biển Đông và cũng chưa bao giờ ủng hộ một bên nào trong các nước tuyên bố chủ quyền để chống lại nước kia. Vậy điều gì đã khiến Ngoại trưởng Hillary Clinton bày tỏ lợi ích mới được tái lập ở đây?
Có hai nguyên do và cả hai đều gắn với sự thay đổi một cách tương đối vị thế và viễn cảnh của Trung Quốc kể từ năm 2008. Nguyên do trước hết và quan trọng nhất là năng lực của Trung Quốc đang tiến tới quá gần Mỹ. Trung Quốc không thể thách thức vai trò của Mỹ với tư cách một siêu cường, nhưng Trung Quốc đang trở thành hùng mạnh đủ để siêu cường Mỹ không thể thực hiện những gì họ muốn ở châu Á.
Quy mô sức mạnh quân sự là điều rõ ràng nhất. Những tàu ngầm, tên lửa mới khiến cho việc can thiệp của Mỹ ở eo biển Đài Loan trở nên quá đắt đỏ, và căn cứ quân sự Yulin mở rộng năng lực của Trung Quốc ở Biển Đông.
Mức độ nợ và thương mại cũng là vấn đề. Mỹ buộc phải đối xử với Trung Quốc một cách tôn trọng nếu không nước này sẽ phải đối mặt với khám phá không mấy vui vẻ về sự hạn chế trong sức mạnh Mỹ.
Nguyên nhân thứ hai lí giải mối quan tâm của Mỹ là từ sự lo lắng về Đông Nam Á vốn là nơi cung cấp cơ hội cho Mỹ gia tăng thanh thế ở khu vực với chi phí rẻ và rủi ro thấp nhằm đóng vai trò toàn cầu là người canh giữ hòa bình. Mỹ có thể biện hộ bằng sự hiện diện hải quân ở Tây Thái Bình Dương.
Có vẻ như khó có thể có xung đột tại Biển Đông, Mỹ có thể dễ dàng đóng vai trò là một người bạn đầy sức mạnh của khu vực. Cái giá duy nhất phải trả là điều này sẽ chọc giận Trung Quốc.
Việc này sẽ không tạo nên sự thù địch với Trung Quốc bởi vì Mỹ không ủng hộ một bên tuyên bố chủ quyền nào và trên thực tế, Mỹ chỉ đề nghị về hợp tác hòa bình. Nhưng sự cọ xát giữa siêu cường mang tính phòng thủ và cường quốc khu vực là rất rõ ràng.
Cùng với việc Ngoại trưởng Clinton rời Đông Nam Á, sự chú ý của Mỹ cũng rời đi với bà. Nước Mỹ sẽ trở lại với mối lo trong nước như sự cố tràn dầu, cuộc bầu cử nghị viện sắp tới và tới các vấn đề ở Iraq, Afghanistan và Pakistan. Nhưng các vấn đề thể hiện tập trung ở Biển Đông vẫn còn đó. Đông Nam Á phải làm gì để tiếp tục thích ứng với sự tăng trưởng của Trung Quốc? Liệu Trung Quốc có tự điều chỉnh nền ngoại giao của mình để giảm thiểu mối lo của các đối tác? Mối quan ngại khu vực Đông Nam Á sẽ gắn kết thế nào với những mối quan ngại và căng thẳng toàn cầu?
Ngay cả khi vấn đề hợp tác hòa bình ở Biển Đông được giải quyết, những thách thức lớn hơn về việc quản lý mối quan hệ bất đối xứng giữa Trung Quốc với các nước láng giềng vẫn còn nguyên vẹn.
-----------------------------------------------------------
Trung Quốc 'phản kích' Mỹ về vấn đề Biển Đông
Tác giả: Linh Thư
Trung Quốc đã chính thức phản ứng với tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ và cảnh báo quốc tế hoá tranh chấp Biển Đông sẽ chỉ khiến vấn đề trở nên tồi tệ.
Trong một thông cáo đăng trên mạng Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 26/7, Bộ trưởng Ngoại trưởng Ngoại giao Dương Khiết Trì đã nêu quan điểm của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, một trong những nội dung được các bên đưa ra thảo luận tại cuộc họp Diễn đàn Khu vực ASEAN diễn ra cuối tuần qua tại Hà Nội.
Khăng khăng quan điểm giải quyết qua kênh song phương
Đề cập đến những tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ, trong đó nêu mối quan hệ giữa những lợi ích quốc gia của Mỹ và Biển Đông, tầm quan trọng và sự khẩn thiết về duy trì tự do lưu thông hàng hải, phản đối sự ép buộc và việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực ở Biển Đông, Bộ trưởng Dương Khiết Trì cho rằng những nhận định có vẻ vô tư đó là nhằm "tấn công" vào Trung Quốc, tạo cho cộng đồng quốc tế một ấn tượng sai lầm rằng tình hình trên Biển Đông là một nguyên cớ cho sự quan tâm nghiêm trọng.
Trong bản thông cáo này, Trung Quốc đã cáo buộc cái nước này gọi là "âm mưu" của một số nước quốc tế hóa vấn đề Biển Đông và cảnh báo "nếu vấn đề Biển Đông trở thành một vấn đề quốc tế hoặc đa phương sẽ chỉ khiến cho vấn đề trở nên tồi tệ và giải pháp sẽ khó khăn hơn".
"Thực tiễn quốc tế cho thấy cách tốt nhất để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đó là các bên liên quan đàm phán song phương trực tiếp", ông Dương khẳng định.
 |
Bộ trưởng Dương Khiết Trì bên lề Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Hà Nội. Ảnh: LAD |
Thông cáo nói rằng, trong các cuộc thảo luận song phương của ông Dương với các đồng nghiệp ASEAN cũng như các nước khác về tình hình trên Biển Đông, các bên đều nói rằng "không có sự đe dọa đối với hòa bình và ổn định khu vực".Ông Dương cũng khẳng định Trung Quốc "có những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải với một số thành viên của ASEAN" nhưng "không vì các nước đó là thành viên ASEAN mà coi đây là bất đồng giữa Trung Quốc và ASEAN".
Trung Quốc cho rằng, ASEAN không phải là một diễn đàn thích hợp để bàn thảo về vấn đề Biển Đông.
Đặt câu hỏi về "sự đồng thuận giữa các nước trong khu vực liên quan đến vấn đề Biển Đông", Bộ trưởng Dương Khiết Trì cho hay"sự đồng thuận đó là các tranh chấp, bất đồng được giải quyết một cách hòa bình thông qua thương lượng hữu nghị trong quyền lợi về hòa bình và ổn định ở Biển Đông và những quan hệ láng giềng thuận hòa" và "không biến nó trở thành một vấn đề quốc tế hay vấn đề đa phương".
Chức năng của Tuyên bố DOC ký giữa Trung Quốc và ASEAN, theo ông, đó là"tăng cường lòng tin giữa các quốc gia liên quan và tạo ra những điều kiện thích hợp và không khí tốt cho giải pháp cuối cùng cho những bất đồng, tranh chấp".
Ông Dương Khiết Trì cũng đặt câu hỏi "Mục đích của việc bàn về sự ép buộc trong vấn đề Biển Đông là gì?" và khẳng định "Trung Quốc từ lâu tin rằng tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều bình đẳng. Trung Quốc, một quốc gia lớn, luôn có những mối quan tâm chính đáng của mình. Liệu biểu hiện một trong những mối quan tâm chính đáng là sự ép buộc? Điều đó không lô gíc.
Biển Đông, mối quan tâm ngày càng tăng của quốc tế
Phản ứng của Trung Quốc được đưa ra hai ngày sau khi kết thúc Diễn đàn ARF - 17, nơi mà Mỹ cùng 11 nước khác đã lên tiếng ủng hộ một cách tiếp cận mới về vấn đề Biển Đông.
Trong tuyên bố được xem là mạnh mẽ và dứt khoát nhất từ trước tới nay của Mỹ về vấn đề Biển Đông, Ngoại trưởng Hillary Clinton khẳng định Mỹ có "lợi ích quốc gia" trong việc tự do lưu thông hàng hải, tự do tiếp cận các vùng biển châu Á và tôn trọng luật pháp quốc tế tại Biển Đông".
Bà Clinton cũng nêu quan điểm của Mỹ "tách đòi hỏi về chủ quyền biển với các tuyên bố chủ quyền đối với đảo và các dãy đảo".
Tờ New York Times nhận định tuyên bố của bà Hillary Clinton đã đặt Trung Quốc vào một tình thế "bối rối", còn tờ AP cho rằng: Tuy Hoa Kỳ vẫn khẳng định không đứng về bên nào trong tranh chấp, song bình luận của Ngoại trưởng Mỹ đã khiến Trung Quốc tức giận.
---------------------------------------------------------------------------------
ASEAN: Mười cây chụm lại...
Tác giả: TS ĐINH HOÀNG THẮNG //Theo SGTT
Tục ngữ Trung Hoa có câu “Độc thụ bất thành sâm” nghĩa là “Cây mọc một mình chẳng thành rừng”. Vào thời đại toàn cầu hoá đang tăng tốc, biệt lập đồng nghĩa với nguy hiểm, lạc lõng đồng nghĩa với nghèo đói và chậm phát triển. Từ phóng chiếu đó, quyết định cách đây 15 năm của Việt Nam tham gia ASEAN là một tầm nhìn xuyên thập kỷ.Ôn cố tri tân
Bộ trưởng Ngoại giao lúc bấy giờ, ông Nguyễn Mạnh Cầm kể lại, đúng vào ngày ông lên đường bay sang Bangkok dự hội nghị AMM-27 để trả lời về việc tham gia ASEAN, Bộ Chính trị họp lần cuối, nhưng rồi có một thành viên không đồng ý việc Việt Nam gia nhập và kiên quyết bảo lưu ý kiến.
Một thứ trưởng bộ Ngoại giao phải bay vào TP.HCM gặp ông Võ Văn Kiệt, thành viên không tham dự cuộc họp nói trên. Sau khi nghe báo cáo ông Kiệt nói: "Điện ngay cho anh Cầm trả lời ASEAN là Việt Nam đồng ý".
Nhắc lại như thế không chỉ để vinh danh những người có tên và không tên làm nên quyết định lịch sử ấy. Ai cũng biết, ASEAN vốn là sản phẩm của chiến tranh lạnh và là một phần trong chiến lược kềm chế chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng sau những thay đổi của thời kỳ hậu Xô Viết, nhất là sau sự "ngộ ra" của những vị lãnh đạo như ông Võ Văn Kiệt đối với thời cuộc, quyết định này lại trở nên cực kỳ hữu lý và đúng thời điểm!
Ảnh: Lê Anh Dũng |
Từ định đề chắc như đinh đóng cột về quan hệ quốc tế của những năm "hai phe bốn mâu thuẫn", Việt Nam làm bước chuyển "đa dạng hoá, đa phương hoá" quan hệ quốc tế và chọn ASEAN làm khâu đột phá. Đấy chính là sự xé rào đầu tiên, tạo ra tư duy mới về đối ngoại trong những năm tháng chấn động đó.
Có thể thấy thực tế không dễ dàng bị ràng buộc bởi các huyền thoại, dù những huyền thoại đó thiêng liêng như thế nào và ăn sâu đến đâu. "Rụt rè bỏ lỡ cơ hội này sẽ là thảm hoạ cho đất nước", cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt có lần đã nhắc nhở như thế.
Các mối đe doạ trong thời chiến tranh lạnh giờ đây bị chủ nghĩa khủng bố thay thế. Ngoài ra, còn có các quốc gia sở hữu những loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt, những mâu thuẫn về biên giới, biển đảo mà đằng sau đó là cạnh tranh bất tận về năng lượng và tài nguyên, những xung đột triền miên, dai dẳng về sắc tộc và tôn giáo.
Cùng với tất cả hiểm hoạ nói trên, Đông Nam Á hiện nay đang phải đối mặt với nguy cơ đụng đầu giữa Mỹ là chủ soái thế giới và Trung Quốc là bá chủ địa phương mà sức mạnh cả "cứng" lẫn "mềm" ngày càng gia tăng và sự tin tưởng vào giá trị riêng của mình chưa có dấu hiệu gì giảm sút, từ cả hai phía.
Bàn đạp, giá đỡ và nguồn sức mạnh
Qua tuyên bố của ngoại trưởng Mỹ tại ARF-17 vừa qua, và sự phản pháo ngay lập tức của ngoại trưởng Trung Quốc trong những ngày này xung quanh giải pháp đối với các tranh chấp ở Biển Đông cho thấy tình hình đang nóng lên. Cộng thêm các cuộc tập trận đã và sẽ tiến hành từ cả hai phía, cục diện an ninh Đông Nam Á đang đứng trước nhiều thách thức.
Ðụng độ hay không đụng độ giữa hai thế lực này còn là câu chuyện của tương lai. Trước mắt hiện nay, thử thách lớn nhất của ngoại giao Mỹ và đương nhiên cũng là trắc nghiệm lớn nhất đối với ngoại giao Trung Quốc là làm thế nào hai nước vừa hợp tác, vừa cạnh tranh nhau trong khuôn khổ kiểm soát được.
Tìm mọi cách né tránh không trở thành quân bài trong ván bài lớn này giữa hai đại cường lại là câu chuyện của ngoại giao ASEAN. Trong quá trình trưởng thành, ASEAN tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến ổn định, an ninh và phát triển của mình và ngăn chặn không để Đông Nam Á trở thành đấu trường, đối tượng tranh chấp và xung đột giữa các nước lớn như trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Chia sẻ những kinh nghiệm đó của ASEAN cho Việt Nam là yêu cầu khách quan và có ý nghĩa chiến lược đối với cả ASEAN lẫn Việt Nam. Ví dụ giải quyết bài toán nhu cầu xác định Mỹ góp phần bảo đảm an ninh cũng quan trọng như nhu cầu giao hảo mọi mặt với Trung Quốc là một đề tài "nóng" hiện nay.
ASEAN thực tế có thể là bàn đạp để Việt Nam triển khai chính sách khu vực năng động, rộng mở. Nếu không phải là một thành viên trách nhiệm và hữu ích, Việt Nam làm sao có thể thay mặt cho hiệp hội trình bày những quan điểm của khu vực về các vấn đề thời sự của chính trị và kinh tế thế giới tại các diễn đàn liên quan cấp toàn cầu?
ASEAN cũng có thể là giá đỡ cho Việt Nam khi nghị trình các vấn đề an ninh cấp vùng, nhất là vấn đề Biển Đông trong quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, đè quá nặng trên vai Việt Nam. Muốn thế Việt Nam cùng ASEAN phải hết sức nhuần nhuyễn và uyển chuyển trong việc lồng ghép giữa song phương và đa phương trong quan hệ với các đối tác chủ chốt như Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Nga và Liên minh châu Âu.
Cuối cùng là ý chí tự lập, tự cường, gần như là một căn cước nổi tiếng của ASEAN, sẽ hoà quyện với chân lý "không có gì quý hơn độc lập tự do" của Việt Nam tạo nên nguồn sức mạnh thời đại để chúng ta cùng nương vào, tiến theo trào lưu chủ đạo trong việc hình thành các phối trí hợp tác giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài.