![]() |
Tổng giám đốc IMF, Dominique Strauss-Kahn, thúc giục các nước chuẩn bị kế hoạch thoát ra khỏi các chính sách hiện hành khi sự phục hồi kinh tế đã trở nên vững chắc. |
Điều tệ hại nhất của kinh tế thế giới là nghĩ rằng điều tệ hại nhất đã đi qua. Tuần báo Economist đã nhận định như vậy để mở đầu loạt bài về tình hình kinh tế hiện nay.
Tia sáng giữa vầng mây bão
Tại hội nghị thường niên của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cuối tuần qua ở thủ đô Washington, đã có không ít những nhận định lạc quan về kinh tế thế giới phát ra từ những nhân vật có ảnh hưởng lớn. “Chúng ta có thể nói một cách thận trọng rằng đã có tia sáng lóe ra từ sau vầng mây bão”, Chủ tịch Ủy ban Tiền tệ và Tài chính quốc tế của IMF, Youssef Boutros-Ghali, nói thật bóng bẩy.
Xa hơn nữa, IMF cho rằng đã đến lúc thảo luận các chiến lược thoát ra khỏi các chính sách hiện hành sau khi tất cả các nước thành viên đã triển khai các gói kích cầu nhằm ngăn chặn cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và làm sạch các tài sản xấu của hệ thống ngân hàng. Tổng giám đốc IMF, Dominique Strauss-Kahn thúc giục: “Quan điểm của chúng tôi là phải xem xét chiến lược thoát ra càng sớm càng tốt”.
Trước đó, vào thứ Sáu, hội nghị bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương 7 nước công nghiệp phát triển (G7) cũng cho rằng tình hình đang ổn định cho dù triển vọng tương lai vẫn còn bấp bênh và nhiều vấn đề lớn chưa được giải quyết.
“Có những dấu hiệu cho thấy tốc độ suy thoái trong kinh tế và thương mại đã chậm lại. Đây là những dấu hiệu đáng khích lệ song hãy còn quá sớm để nói rằng rủi ro đã giảm”, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Timothy Geithner, nhận định. Trong thông cáo chung, nhóm G7 còn đi xa hơn khi dự báo rằng kinh tế sẽ bắt đầu nhích lên vào cuối năm nay cho dù mức tăng trưởng hãy còn “yếu”.
Một số nhà kinh tế đồng ý rằng sự xuống dốc đang chậm lại ở một số khu vực của thế giới nhưng ngay cả những người lạc quan nhất cũng thận trọng nói rằng phải mất nhiều tháng nữa hoạt động kinh tế mới có thể đảo chiều và phải đến năm 2010 tình hình việc làm mới bắt đầu được cải thiện.
Sự tự mãn nguy hiểm
Báo Economist công nhận kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu tốt như giá cổ phiếu tăng trở lại; nhiều chỉ số kinh tế sáng lên, đình đốn trong sản xuất công nghiệp đã bớt, thị trường bất động sản có dấu hiệu hồi sinh, và chỉ số niềm tin của giới đầu tư đã chuyển sang hướng tích cực.
Hai phần ba trong số 42 thị trường chứng khoán mà tờ báo này theo dõi đã tăng hơn 20% trong sáu tuần qua.
Tuy nhiên, theo Economist, niềm tin đang đặt sai chỗ - những tia hy vọng le lói bị diễn dịch sai thành niềm tin rằng kinh tế đang hồi phục mạnh mẽ trong khi thực chất đây chỉ là sự suy thoái chậm lại mà thôi. Hơn thế nữa, niềm tin và những tin tức lạc quan có thể dẫn tới sự tự mãn nguy hiểm. Đối với các chính trị gia, cách nhìn nhận kinh tế thế giới đang trở lại tình trạng bình thường sẽ ngăn cản những chính sách đề phòng một sự suy thoái trầm trọng hơn nữa.
Economist nhận thấy thị trường chứng khoán thường tăng điểm trước khi nền kinh tế được cải thiện bởi vì nhà đầu tư luôn đón đầu cơ hội trước khi các thông tin thống kê được công bố. Nhưng đã có nhiều vụ tăng giá cổ phiếu chẳng đi đến đâu. Trong thời Đại Suy thoái 1929-1932, chỉ số Dow Jones đã có 4 lần tăng vượt mức 20% để rồi lại rơi xuống thấp hơn trước. Từ khi khủng hoảng tài chính xảy ra đến nay, đã có 5 đợt chứng khoán tăng hơn 10% chỉ để tụt xuống trở lại.
Trong sản xuất công nghiệp, sáu tháng vừa qua đã có nhiều vụ đình đốn, một phần do sự điều chỉnh lượng hàng tồn kho trên toàn cầu. Khi hàng hóa không bán được và vay vốn khó khăn, các doanh nghiệp khắp thế giới đã giảm sản lượng nhanh hơn đà suy giảm của nhu cầu tiêu thụ. Giờ đây, hàng tồn kho đã được thanh lý hết, họ bắt đầu sản xuất trở lại, và do đó cuộc suy thoái trong sản xuất công nghiệp gần như đã qua khỏi thời điểm tồi tệ nhất.
Nhưng vẫn còn hai lĩnh vực kinh tế tiếp tục nguy hiểm. Một là, cuộc khủng hoảng ngân hàng, tiến trình thanh lọc nợ xấu, sự suy giảm nhu cầu tiêu thụ và hai là, sự đình đốn ở các nền kinh tế đang phát triển do dòng vốn đầu tư tư nhân bị tắc nghẽn đột ngột. Năm 2007, dòng vốn nước ngoài chiếm tới 5% GDP của các nước đang phát triển nhưng từ khi khủng hoảng kinh tế bắt đầu dòng vốn này gần như cạn kiệt khi nhà đầu tư lui về thế thủ. Theo IMF, mỗi năm chính phủ và doanh nghiệp các nước đang phát triển cần tới 1.800 tỉ đô la vốn đầu tư và tín dụng; phải mất nhiều năm nữa dòng tiền này mới có thể phục hồi.
Nói tóm lại, kinh tế thế giới vẫn đang trong thời kỳ suy thoái mà ở một số phương diện, còn tồi tệ hơn thời kỳ Đại Khủng hoảng. Báo cáo “Triển vọng kinh tế thế giới” mới nhất của IMF dự báo tổng sản lượng toàn cầu năm nay sẽ giảm 1,3%, mức thấp nhất trong 60 năm qua. Đáp lại, các nước đã thực hiện những chính sách ứng phó chưa từng thấy trong lịch sử. Các ngân hàng trung ương đã bơm hàng ngàn tỉ đô la Mỹ vào thị trường để vực dậy thị trường tài chính, nới lỏng các điều kiện tiền tệ chẳng hạn như hạ lãi suất xuống gần 0%. Hàng loạt các gói kích cầu trị giá hàng trăm tỉ đô la khác cũng đã được thực hiện. Cho đến nay, thâm hụt ngân sách của các nước giàu đã lên tới 9% GDP, cao gấp sáu lần so với thời điểm trước khủng hoảng.
Điểm qua các nền kinh tế lớn
Tuy nhiên, cho dù biết rằng khủng hoảng sẽ tồi tệ hơn nhiều nếu không có sự can thiệp kịp thời và mạnh mẽ của chính phủ, nhưng không nên nhầm lẫn giữa những tia hy vọng le lói với sự hồi phục bền vững. Một sự hồi phục bền vững chỉ có thể xảy ra khi nhu cầu của chính phủ được thay thế bằng sự tiêu dùng của khu vực tư nhân. Và triển vọng đó đến nay vẫn hết sức u ám.
Một ví dụ: kinh tế Mỹ. Sự điều chỉnh của thị trường nhà cửa Mỹ diễn ra sớm nhất: giá nhà ở Mỹ lên đến đỉnh điểm cách đây ba năm, và nay đã giảm bình quân 30%. Sản xuất công nghiệp giảm ở mức 20%/năm liên tiếp trong quí 4-2008 và quí 1-2009. Biện pháp ứng phó của Chính phủ Mỹ cũng tỏ ra mạnh mẽ hơn tất cả các quốc gia khác. Có thể kinh tế Mỹ sẽ bắt đầu tăng trưởng trở lại trong một thời gian không xa nữa, nhưng vẫn chưa có các yếu tố tạo thành sự hồi phục đủ mạnh để ngăn chặn xu thế mất việc làm đang tăng nhanh. Kinh tế các nước khác suy yếu cũng làm giảm khả năng xuất khẩu của Mỹ.
Các ngân hàng được bơm tiền liên tục nhưng dòng chảy tín dụng vẫn bị tắc nghẽn bởi tài sản độc. Tiêu dùng của người dân và đầu tư của doanh nghiệp vẫn sút giảm vì nhu cầu trả nợ và tiết kiệm. Tiêu dùng của thành phần tư nhân, chiếm đến 70% GDP của Mỹ trong giai đoạn từ năm 2000-2008, hiện đang thu hẹp rất nhanh. Tỷ lệ tiết kiệm của người Mỹ từ 0% trước khủng hoảng, đã tăng nhanh lên mức 4% hiện nay, tuy vẫn còn thấp so với tỷ lệ 7% ngày trước. Thất nghiệp và phá sản chắc chắn sẽ tạo ra nhiều đợt suy thoái mới của kinh tế Mỹ. Tình hình kinh tế Anh Quốc cũng tương tự như vậy.
Ở Nhật Bản và Đức tình hình có sáng sủa hơn. Hai nền kinh tế này đều chứng kiến xuất khẩu và sản xuất công nghiệp sụt giảm nhanh hơn các nước khác nhưng may mắn là khối tư nhân của Nhật và Đức không mắc nợ nhiều như Anh-Mỹ. Vấn đề của Đức là tỷ lệ thất nghiệp đã vượt mức hai con số và người tiêu dùng đang ra sức thắt lưng buộc bụng trước tương lai u ám, do vậy tiêu thụ nội địa không tăng trong lúc xuất khẩu giảm sút.
Tệ hơn nữa, ngành ngân hàng Đức đang phải đương đầu với một thảm họa: theo tính toán của IMF, các ngân hàng châu Âu mà chủ yếu là ngân hàng Đức, sẽ thất thoát khoảng 1.100 tỉ đô la trong cuộc khủng hoảng này.
Nhật Bản có cách hành động khác. Cho đến nay, biện pháp kích cầu của Nhật Bản là lớn nhất nếu tính theo tỷ lệ trên GDP nhưng cái giá phải trả là nợ công của Chính phủ Nhật tăng vọt, hiện đã ở mức 200% GDP, khiến cho chính phủ không còn dư địa để thi thố các biện pháp tiền tệ và tài khóa.
Có lẽ Trung Quốc là điểm sáng nhất trong bức tranh kinh tế toàn cầu; Chính phủ Trung Quốc vừa có nhiều tiền vừa có quyết tâm thúc đẩy thị trường trong nước và các biện pháp kích cầu đã bắt đầu mang lại kết quả. IMF dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm nay sẽ vào khoảng 6,5%, thấp hơn chỉ tiêu 8% mà chính phủ nước này đặt ra nhưng vẫn là con số mơ ước của tất cả các nước. Điểm yếu của Trung Quốc là ba phần tư sự tăng trưởng đang dựa vào đầu tư của chính phủ, nhất là các dự án hạ tầng.
Tiếp tục ứng phó
Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng tình hình kinh tế toàn cầu vẫn chưa có gì đáng phấn khởi; bóng dáng của sự hồi phục vẫn chưa xuất hiện. Cho nên, đừng để cho sự lạc quan quá sớm làm mất cảnh giác hoặc lơ là trong việc đối phó với khủng hoảng. Nhất là vào lúc này đã có thêm một nguy cơ mới đe dọa làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế thêm tồi tệ: đại dịch cúm heo.
Các định chế tài chính quốc tế như IMF và WB, mặc dù không quá bi quan như trước, cũng khuyến cáo các nước tiếp tục thực hiện các chính sách ngăn chặn suy thoái để bảo đảm sự hồi phục có thể bắt đầu vào năm 2010. Bản thông cáo chung IMF-WB cuối tuần qua kêu gọi các quốc gia thành viên có thêm hành động để phục hồi sức khỏe của hệ thống ngân hàng, khôi phục hoạt động tín dụng và dòng lưu chuyển vốn. IMF-WB cũng thúc giục các nước tiếp tục các biện pháp kích cầu và phát triển những kế hoạch thoát ra khỏi các chính sách “phi truyền thống” đang áp dụng một khi sự phục hồi kinh tế đã trở nên vững chắc.
(Theo Huỳnh Hoa - Thời báo kinh tế Sài Gòn)
![]() |
![]() |
![]() |
Chuyển nhượng, cho thuê hoặc hợp tác phát triển nội dung trên các tên miền:
Quý vị quan tâm xin liên hệ: tieulong@6vnn.com