Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Mỹ - Trung và các nền kinh tế thuộc phần còn lại của thế giới

Khủng hoảng tài chính Mỹ: “Ai” phải chịu trách nhiệm?
  (Minh Tuấn // Time // Theo Dân Trí)

Khủng hoảng kinh tếCho đến nay, người ta thường đổ lỗi cho những người làm việc trên phố Wall, tổ chức cho vay thế chấp và những nhà điều tiết thị trường kém năng lực về việc đã gây ra khủng hoảng tài chính.
 
Thế nhưng trong một nghiên cứu mới nhất, chuyên gia kinh tế Ricardo Caballero chỉ ra còn đối tượng khác góp phần tạo ra đống hỗn độn trên thị trường tiền tệ của Mỹ và đến giờ vẫn chưa chịu trách nhiệm xứng đáng: nước ngoài.

Giáo sư Caballero - Trưởng khoa kinh tế tại Đại học MIT, cho rằng: “Không còn nghi ngờ gì nữa, áp lực lên hệ thống tài chính Mỹ (yếu tố góp phần tạo ra khủng hoảng tài chính) đến từ nước ngoài.

Nhà đầu tư nước ngoài tạo ra nguồn cầu đối với những tài sản mà lĩnh vực tài chính Mỹ khó có thể tạo ra. Tất cả những gì họ cần là tài sản có độ an toàn cao và việc nhiều nước khác đẩy mạnh mua loại tài sản đó khiến nước Mỹ trở nên thiếu an toàn”.

Kinh tế gia người Chilê này không phủ nhận trách nhiệm của những người điều tiết và ngành ngân hàng Mỹ. Thế nhưng ông cho rằng các bên điều tra và nhà hoạch định chính sách đang tốn quá nhiều thời gian chỉ trích phố Wall và không xem xét đầy đủ đến những yếu tố bất ổn trên toàn cầu đã là nguyên nhân quan trọng tạo ra khủng hoảng.

Ông nói: “Điều khiến tôi lo lắng chính là Quốc hội đang cố gắng tạo ra khung điều tiết mới nhưng lại không đặt câu hỏi áp lực tạo ra những sản phẩm tài chính độc hại đến từ đâu? Nói đến giải pháp, việc chỉ xem xét đến hệ thống tài chính Mỹ không phải là hướng đi tốt”.

Nhiều chuyên gia kinh tế và nhà hoạch định chính sách tin rằng những gì ông Caballero nói có phần chính xác. Chuyên gia Alex Pollock thuộc Viện doanh nghiệp Mỹ cho rằng những nhà đầu tư nước ngoài đã mua trái phiếu của hai công ty cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac đã góp phần tạo ra bong bóng nhà đất.

Giáo sư René Stulz thuộc đại học Ohio, người đã nghiên cứu rất nhiều về khủng hoảng tài chính, có cùng quan điểm rằng chuyên gia Caballero đã chỉ ra chính xác một đối tượng góp phần gây ra khủng hoảng tài chính.

Ông nói: “Nhà đầu tư tìm đến loại hình công cụ đầu tư an toàn đã tạo ra lượng cầu lớn đối với sản phẩm mới, hệ thống tài chính của chúng ta hoạt động khác với quá khứ và trở nên dễ chịu ảnh hưởng hơn, lúc đó chính nhiều người cũng không ý thức được điều đó”.

Tất nhiên không phải tất cả các chuyên gia kinh tế đều đồng ý với nhận định trên. Họ có quan điểm như vậy bởi việc nguồn tiền vào nước Mỹ nhiều không có nghĩa là có thể tránh được tình trạng thắt chặt tín dụng.

Chuyên gia kinh tế Anil Kashyap thuộc Đại học University of Chicago phản bác: “Phần lớn nguyên nhân của khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ lựa chọn được đưa ra ở nội bộ nước Mỹ”.

Thế nhưng ông Caballero cho rằng điều đó là sai lầm. Câu chuyện của ông không bắt đầu ở những tòa nhà cao hoặc đang phát triển ở Miami hay Las Vegas mà ở những tổ chức đầu tư hay văn phòng của Ngân hàng Trung ương tại Bắc Kinh hay Riyadh.

Ông Caballero nhấn mạnh nhiều nhà đầu tư quốc tế, đặc biệt là những người nào có trách nhiệm quản lý cho tốt dự trữ của chính phủ, thường thích tài sản có độ an toàn cao - điều này biến kinh tế Mỹ vốn đang ổn định thành khu vực tranh giành.

Trung Quốc, với lượng dự trữ khổng lồ thu được từ Mỹ, mua ngày một nhiều trái phiếu Bộ Tài chính Mỹ. Hành động này đẩy lợi tức trái phiếu xuống thấp, trái phiếu Bộ Tài chính trở nên kém hấp dẫn hơn đối với những nhà đầu tư nước ngoài khác.

Hậu quả, nhu cầu đối với nợ Mỹ lợi tức cao hơn buộc chuyên gia tài chính phố Wall đưa ra loại chứng khoán mới mang lại thu nhập cố định, đáng chú ý nhất là CDOs. Phần lớn tiền thu được đã vào thị trường thế chấp.

Làm sao để ngăn một cuộc khủng hoảng tương tự tái diễn chính là điều mà chuyên gia Caballero nghĩ rằng cả thị trường đang sai lầm. Ông tin rằng việc cải tổ hệ thống tài chính Mỹ chỉ có thể giải quyết một phần vấn đề. Theo ông, chính các bên nước ngoài cũng cần phải thay đổi hành vi của mình.


Con thuyền kinh tế toàn cầu chòng chành vì Trung Quốc?
(Thanh Bình // Spiegel // Theo Vietnamnet)

Để kích thích nền kinh tế đất nước, chính phủ Trung Quốc đã ghìm giá đồng nhân dân tệ so với USD. Tuy nhiên, việc làm đó không chỉ gia tăng sự thiếu cân bằng kinh tế toàn cầu mà rốt cuộc còn có thể làm hại cả chính Trung Quốc.

 
Thặng dư xuất khẩu và dự trữ tiền tệ của Trung Quốc (Ảnh Spiegel)

Mới chỉ hơn 1 năm trước đây, Hoàng Phạm Anh, 55 tuổi, còn đang vật lộn giữ cho công ty của ông không vướng vào nợ nần. Là chủ tịch công ty sản xuất bật lửa Nhậm Phong Ôn Châu, ông Hoàng buộc phải để gần 500 công nhân về nhà nghỉ sớm do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Bản thân ông cũng chẳng có mấy việc để làm ngoài xem tivi trong một căn hộ xa xỉ ở thành phố công nghiệp Ôn Châu, miền đông Trung Quốc.

Hiện tại, việc kinh doanh đã khôi phục hoàn toàn trong các nhà máy ở Ôn Châu, nơi cung cấp cho thế giới những hàng hoá rẻ tiền, từ bật lửa cho tới cáp điện. Tại Nhậm Phong Ôn Châu, các công nhân mặc đồng phục màu xám siết chặt những bộ phận nhỏ xíu bằng kim loại vào vỏ các bật lửa - những sản phẩm sau đó được bán cho người hút thuốc ở châu Âu, Mỹ và Nhật Bản.

Do lời lãi ít, không quá 5% nên ông Hoàng cẩn thận điều chỉnh công việc của các nam, nữ công nhân trẻ trong nhà máy của mình nhằm loại bỏ những động tác không cần thiết. Tuy nhiên, việc doanh nghiệp của ông sống sót qua khủng hoảng chủ yếu nhờ chính phủ của ông và quyết định ghìm giá đồng Nhân dân tệ so với USD một lần nữa vào mùa hè năm 2008.

Vật chống đỡ

Bắc Kinh đang sử dụng chính sách trên để đảm bảo rằng, các nhà máy của đất nước họ có thể tiếp tục xuất khẩu sản phẩm với giá rẻ hơn. Vì giá trị của đồng USD đã suy giảm đáng kể, đồng Nhân dân tệ cũng giảm cùng với nó, mất tới gần 17% giá trị so với đồng Euro năm 2009.

Cùng lúc đó, tỉ giá hối đoái thấp nhân tạo này đóng vai trò như vật chống đỡ, giúp chính phủ Trung Quốc bảo vệ nhiều doanh nghiệp xuất khẩu trong nước không lâm vào thất bại. Đây là lí do duy nhất cho việc xuất khẩu của Trung Quốc chỉ giảm 1,2% trong tháng 11/2009, tương đương cùng kỳ một năm trước đó, đưa Trung Quốc thay thế Đức trở thành nền kinh tế xuất khẩu hàng đầu thế giới.

Nhiều người ở phương Tây nhìn nhận cường quốc kinh tế đang lên này như một động cơ phát triển vĩ đại, góp phần đưa phần còn lại của thế giới thoát khỏi khủng hoảng. Chính phủ Bắc Kinh đã thúc đẩy nền kinh tế nội địa bằng một gói kích thích khổng lồ trị giá 4.000 tỉ Nhân dân tệ (khoảng 580 tỉ USD), mang tới các khoản đầu tư vào việc xây dựng đường bộ, đường sắt và sân bay khắp đất nước. Các động thái giảm thuế hào phóng để kích thích tiêu dùng, đặc biệt là những mặt hàng đắt tiền như xe hơi, cũng là một phần trong gói kích thích này.

Tuy nhiên, với nền kinh tế xuất khẩu khổng lồ của họ, Trung Quốc đã gia tăng những sự bất cân bằng toàn cầu bằng chiến lược tỉ giá hối đoái hiếu chiến - cùng kiểu bất cân bằng vốn, đã một phần gây ra cuộc khủng hoảng tài chính gần đây nhất - và do đó, cần phải được điều chỉnh.

Trung Quốc cũng có nguy cơ làm dấy lên các cuộc xung đột thương mại mới, kéo dài, đặc biệt với các nước lân cận. Kể từ đầu cuộc khủng hoảng kinh tế, Trung Quốc đã bắt đầu chuyển hướng một số hoạt động xuất khẩu sang các nước láng giềng thay vì nhắm tới châu Âu và Mỹ, nơi việc kinh doanh sụt giảm.

Hàng loạt vụ kiện bán phá giá

Một số nước láng giềng đã bắt đầu thực thi các biện pháp đề phòng. Việt Nam mới đây đã giảm giá đồng nội tệ xuống 5%, khiến việc nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn và bảo vệ ngành công nghiệp nội địa khỏi sự tấn công ào ạt của hàng hoá Trung Quốc. Ấn Độ cũng gửi hàng loạt đơn khiếu nại về việc bán phá giá tới Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), kể cả một vụ liên quan tới giấy nhập khẩu giá rẻ từ Trung Quốc. Tương tự, Indonesia đã tìm cách bảo vệ nước này trước mặt hàng móng tay giá rẻ của Trung Quốc bằng cách áp thuế bảo hộ.

Ngược lại, các công ty phương Tây hầu như vẫn không mấy quan tâm về chính sách tỉ giá hối đoái của Bắc Kinh. Các nhà sản xuất những mặt hàng giày dép, khoan điện hoặc máy tính giá rẻ ở Trung Quốc để bán cho các thị trường nội địa nước này không có lí do gì để phàn nàn. Và rất nhiều doanh nghiệp Đức, đặc biệt là những hãng sản xuất máy cơ khí, có thể vẫn bán được sản phẩm của họ trong địa hạt của đồng Nhân dân tệ giá thấp vì các khách hàng người Trung Quốc thường sẵn sàng trả giá cao hơn cho chất lượng Đức.

Tuy nhiên, ở châu Âu và Mỹ, ngày càng có nhiều sự phản đối chính sách duy trì phát triển nền kinh tế đất nước nhưng về cơ bản gây bất lợi cho phần còn lại của thế giới mà Trung Quốc đang theo đuổi. Trên khắp đất nước Trung Quốc, giới quan chức cấp tỉnh đang thi đua mở rộng các nhà máy quốc doanh tại địa phương cũng như xây dựng những cơ sở mới. Chỉ riêng ngành công nghiệp thép của nước này đã tăng thêm 1/3 công suất chỉ trong khoảng thời gian 2 năm.

Do đó, thế giới phải gắng chống đỡ trước một làn sóng các hàng hoá "made in China" giá rẻ mới. "Không may là, chúng ta sẽ chứng kiến nhiều vụ khiếu nại bán phá giá hơn đối với Trung Quốc trong nửa sau năm 2010", Jörg Wuttke, Chủ tịch Phòng Thương mại Liên minh châu Âu tại Bắc Kinh, dự đoán.

Vào cuối tháng 12/2009, EU đã áp thuế chống phá giá 64,3% lên mặt hàng khung kim loại của Trung Quốc vốn được sử dụng cho ngành công nghiệp xe hơi. Tương tự, Mỹ cũng đang bảo vệ nước này bằng cách thực thi các mức thuế suất mới đối với các ống thép và lốp Trung Quốc giá rẻ. Bắc Kinh doạ trả đũa bằng cách áp thuế tượng trưng đối với thịt gà và ô tô Mỹ.

Con dao hai lưỡi

Trớ trêu thay, Trung Quốc, với chính sách ghìm giá đồng Nhân dân tệ, rốt cuộc sẽ làm hại bản thân họ hơn đối với bất kỳ nước nào khác - giống như một bệnh nhân đang hồi phục liều lĩnh tìm tới nhiều loại thuốc hơn. Để giữ đồng Nhân dân tệ ở mức giá thấp, ngân hàng trung ương Trung Quốc phải liên tục mua vào USD. Vì vậy, đất nước này đã tích luỹ được dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, trị giá 2.300 tỉ USD.

Trung Quốc đầu tư khoảng 2/3 quỹ dự trữ vào đồng USD, chủ yếu trong các trái phiếu chính phủ Mỹ. Tuy nhiên khi đồng USD tiếp tục giảm giá, giá trị của việc đầu tư này cũng sẽ giảm theo đó.

Dẫu vậy, cho tới hiện tại, Trung Quốc vẫn từ chối tham gia vào một cuộc tranh luận về sự phụ thuộc chặt chẽ của nền kinh tế đất nước họ vào các tỉ lệ hối đoái bị thao túng. Tại một cuộc gặp với các đại diện EU ở Nam Kinh, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo từng bác bỏ một đề xuất về việc ông giảm tỉ giá trao đổi giữa đồng Nhân dân tệ với đồng USD để kiểm soát xuất khẩu tràn lan, là "không công bằng". Ngay cả Tổng thống Mỹ  Barack Obama, trong một chuyến thăm mới đây tới Trung Quốc, cũng không sẵn lòng ra sức thuyết phục giới lãnh đạo nước chủ nhà về chủ đề chính trị cấm kỵ này.

Vấn đề dường như đã trở thành một điều gây bối rối cho các lãnh đạo Bắc Kinh, đặc biệt đối với mục tiêu đã công bố về việc cân bằng các tài khoản tiền gửi của Trung Quốc với những nước khác vào cuối năm 2010.

Mục tiêu này là nhiệm vụ của những người như Dư Vĩnh Định, cựu cố vấn của ngân hàng trung ương Trung Quốc, 61 tuổi. Ông Dư hiện có một văn phòng trên tầng 15 của Viện Khoa học Xã hội ở Bắc Kinh, một cơ quan cố vấn có uy tín của chính phủ. Từng được coi là người có tầm nhìn xa trông rộng hàng đầu cho một cường quốc thế giới, ông Dư nhận thấy bản thân cần phải bảo vệ trọng trách của cuộc đời mình.

Ông Dư kỉ niệm thành tựu vĩ đại nhất của mình vào ngày 21/7/2005 khi Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (tên gọi chính thức của ngân hàng trung ương Trung Quốc) tăng một mức không đáng kể giá của đồng Nhân dân tệ so với đồng USD, đồng thời dỡ bỏ việc ghìm giá Nhân dân tệ so với đồng tiền Mỹ. Kể từ đó, thay vì nhất quyết giảm giá so với USD, Nhân dân tệ đã dao động trong giới hạn xác định so với rổ tiền tệ, bao gồm nhiều loại tiền khác nhau trên thế giới.

Động thái này đã dẫn tới việc tăng 22% giá trị của đồng Nhân dân tệ so với đồng USD vào tháng 11/2008. Các nhà cải cách giống như ông Dư, những người tưởng tượng rằng Trung Quốc đang trên đà tự giải phóng khỏi sự phụ thuộc vào đồng tiền yếu, đã vui mừng coi sự điều chỉnh là một bước khởi đầu mang tính tượng trưng. Họ cũng tin rằng, đồng Nhân dân tệ với giá cao hơn sẽ giảm chi phí nhập khẩu của Trung Quốc, kích thích tiêu dùng cá nhân và giúp Trung Quốc gia nhập hàng ngũ các nước công nghệ cao về dài hạn. "Chúng ta không thể để Mỹ khai thác chúng ta vô hạn định như một quốc gia có đồng tiền yếu", ông Yu nói.

 

Nguy cơ bong bóng vỡ

Mặc dù vậy, trong cơn suy thoái toàn cầu, các nhà cải cách sớm nhận ra bản thân họ đứng về phe bảo hộ. Một trong các nhà cải cách này là Chu Tiểu Xuyên, thống đốc ngân hàng trung ương. Ông Chu đã định ra tỉ giá hối đoái của đồng Nhân dân tệ theo sự chỉ đạo của chính phủ với mục đích làm bất cứ điều gì có thể để tăng cường xuất khẩu nhằm đạt mục tiêu tăng GDP thêm 8%. Các dự báo ban đầu chỉ ra rằng, trong thực tế, GDP của Trung Quốc thậm chí còn tăng nhiều hơn trong năm 2009, tới 9%.

Dẫu vậy, với cơ chế tỉ giá hối đoái cứng nhắc, ông Chu cũng đang nuôi dưỡng bong bóng kinh tế khổng lồ của Trung Quốc. Một số ngoại tệ mà ông buộc phải liên tục rút khỏi thị trường để củng cố đồng Nhân dân tệ, sau đó được tái bơm vào vòng quay tiền tệ dưới dạng khả năng thanh khoản tăng cao. Những khoản vay lãi suất thấp từ các ngân hàng đang gián tiếp nhen nhóm tình trạng đầu cơ lan tràn về chứng khoán và bất động sản.

Nếu Mỹ đột ngột tăng tỉ lệ lãi suất, bong bóng kinh tế này có thể vỡ vụn. Thực tế, thông qua việc ghìm giá đồng Nhân dân tệ so với đồng USD, Trung Quốc cuối cùng biến bản thân phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của Mỹ. "Không ai biết đồng USD sẽ xuống thấp tới mức nào hay liệu Mỹ có đột ngột chấm dứt chính sách tháo khoán tiền tệ của họ hay không?", nhà kinh tế Lâm Cường thuộc Đại học Tôn Trung Sơn ở Quảng Châu nhấn mạnh.

Dẫu vậy, nhiều cộng sự Trung Quốc của ông Lâm, ngược lại, nhìn nhận việc ghìm giá đồng USD là một biểu tượng của chủ quyền quốc gia thay vì sự phụ thuộc khó chịu. "Phương Tây càng yêu cầu Trung Quốc tăng giá đồng Nhân dân tệ, chính phủ sẽ càng ít đáp ứng", cựu cố vấn ngân hàng trung ương Dư nói.

Trong khi đó, nhà sản xuất bật lửa họ Hoàng đang đặt hy vọng vào việc đồng Nhân dân tệ vẫn được định giá thấp. Ông bộc bạch: "Nếu Bắc Kinh tăng giá đồng Nhân dân tệ lên 1,5% thì tôi sẽ phá sản".


Ngẫm về suy thoái kinh tế thế giới
( Kiều Oanh // Economist //Theo Vneconomy)

Liệu kinh tế thế giới có dịch chuyển trơn chu từ bình ổn sang phục hồi bền vững hay không còn phụ thuộc vào việc những khác biệt giữa hai nhóm nền kinh tế sẽ được giải quyết ra sao. - tinkinhte.com
Liệu kinh tế thế giới có dịch chuyển trơn chu từ bình ổn sang phục hồi bền vững hay không còn phụ thuộc vào việc những khác biệt giữa hai nhóm nền kinh tế sẽ được giải quyết ra sao.

Suy thoái kinh tế thế giới đã không nghiêm trọng như  người ta tưởng, nhưng hậu quả của nó lại có thể đáng sợ hơn nhiều người nghĩ.

Đó là nhận định được đưa ra trong bài viết “Great stabilisation” (tạm dịch: “Đại bình ổn hóa”), nhìn lại suy thoái kinh tế thế giới năm qua và triển vọng phục hồi sắp tới, đăng trên tờ Economist.

VnEconomy xin giới thiệu với độc giả bản lược dịch bài viết này.

Năm 2009 được nhiều người xem như một năm suy thoái nghiêm trọng của kinh tế toàn cầu, trong đó sản lượng của nền kinh tế thế giới trải qua sự sụt giảm nghiêm trọng nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ 2 tới nay. Nhưng có lẽ, sẽ là hợp lý hơn nêu coi 2009 là năm bình ổn trở lại của kinh tế thế giới, vì năm nay không chỉ đáng nhớ vì tốc độ sụt giảm chóng mặt của sản lượng, mà còn vì một thảm họa kinh tế đã được ngăn chặn một cách ngoạn mục.

Cách đây 12 tháng, cơn hoảng loạn sau vụ phá sản của Ngân hàng Đầu tư Lehman Brothers đã đẩy thị trường tài chính toàn cầu tới mép vực sụp đổ. Các hoạt động kinh tế khắp thế giới, từ sản xuất công nghiệp tới ngoại thương, lao dốc với tốc độ nhanh hơn ở thời kỳ Đại khủng hoảng đầu thập niên 1930.

Tuy nhiên, lần này, sự sụt giảm trên đã được ngăn chặn chỉ trong vòng vài tháng. Những nền kinh tế đang nổi lên đã tăng tốc đầu tiên và mạnh hơn cả. Sau một thời gian ngắn đình trệ, GDP của Trung Quốc đã tăng trưởng 7,9% so với cùng kỳ năm trước trong quý 2 và tăng 8,9% trong quý 3 vừa qua. Đến giữa năm, những nền kinh tế lớn, giàu có của thế giới, ngoại trừ Anh và Tây Ban Nha, đã bắt đầu tăng trưởng trở lại. Tới thời điểm này, trên thế giới hiện chỉ còn một vài nền kinh tế như Latvia và Ireland là vẫn còn chưa thoát khỏi vòng vây của suy thoái.

Tuy nhiên, những thiệt hại mà suy thoái đã gây ra cho kinh tế thế giới là không hề nhỏ. Tỷ lệ thất nghiệp bình quân của các nền kinh tế trong Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) là gần 9%. Tại Mỹ, nơi suy thoái bắt đầu sớm hơn các nơi khác, đội ngũ thất nghiệp đã tăng gấp đôi lên 10%. Tại một số quốc gia, kết quả của tiến trình giảm nghèo kéo dài nhiều năm đã trở về con số 0 khi mà tầng lớp nghèo nhất chịu tác động tiêu cực cùng lúc của sự suy giảm tăng trưởng kết hợp với giá thực phẩm cao.

Mặc dù vậy, nhờ sự vững vàng của những nền kinh tế lớn và đông dân như Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia, nhóm các nền kinh tế đang nổi lên đã chống chọi không tồi với lần suy thoái này nếu so sánh với những gì đã diễn ra trong lần suy thoái 1991. Đối với nhiều người trên thế giới, lần suy thoái này đã không quá khủng khiếp.

Nhưng điều này không phải tự nhiên mà có. Đó là kết quả của những động thái phản ứng lớn nhất, rộng nhất và nhanh nhất từng có trong lịch sử của các chính phủ. Những nhà băng mấp mé bờ vực phá sản đã được bao bọc bằng hàng trăm tỷ USD tiền thuế của dân. Các ngân hàng trung ương đua nhau hạ lãi suất, các ngân hàng trung ương lớn tăng mạnh giá trị bảng cân đối kế toán. Các chính phủ trên toàn cầu tung ra những gói kích thích kinh tế lớn.

Những biện pháp này đã giúp ngăn chặn sự hoảng loạn, vực dậy hệ thống tài chính và bù đắp lại sự sa sút nhu cầu của khu vực tư nhân. Nếu không có những giải pháp như vậy, Đại suy thoái 1930 rất có thể đã lặp lại.

Nhưng mọi sự tốt đẹp mới chỉ dừng ở đó. Điều đáng ngại hiện nay là quá trình bình ổn trở lại của kinh tế thế giới vẫn còn rất mong manh, một mặt vì nhu cầu toàn cầu còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của các chính phủ, mặt khác vì chính sách tài khóa mở rộng dù đã ngăn chặn được những rắc rối cũ, nhưng lại tạo nguồn cho những bất ổn mới.

Giá nhà đất vẫn suy giảm tại đa số các thị trường, việc nước Áo cách đây ít ngày quốc hữu hóa ngân hàng Hypo Group cho thấy, hệ thống tài chính thế giới chưa hết căng thẳng. Những bằng chứng rõ nét về sự thanh công, chẳng hạn việc các ngân hàng lớn của Mỹ sớm trả lại tiền cứu trợ của Chính phủ, có thể khiến người ta dễ dàng quên mất rằng, sự phục hồi kinh tế vẫn còn đang phải dựa trên hoạt động chi tiêu công.

Nếu bỏ qua những tác động tạm thời của hoạt động gia tăng sản xuất để tăng hàng tồn kho của các doanh nghiệp, thì phần nhiều của sự phục hồi nhu cầu toàn cầu là kết quả của chi tiêu công. Hoạt động gia tăng hàng tồn kho đã giúp thúc đẩy sự phục hồi tại các nền kinh tế mới nổi, trong khi chỉ có thể ngăn chặn sự trở lại của suy thoái tại nhiều nền kinh tế giàu có.

Sự khác biệt như vậy giữa các nền kinh tế phát triển và đang nổi lên trong tiến trình phục hồi sẽ còn tiếp diễn. Nhu cầu tại các nước giàu sẽ vẫn còn yếu ớt, đặc biệt là ở các quốc gia có mức vay nợ cao trong các hộ gia đình và hệ thống ngân hàng nhiều rạn nứt.

Tỷ lệ nợ so với thu nhập của các hộ gia đình ở Mỹ hiện chỉ thấp hơn mức đỉnh chút ít và cao hơn khoảng 30% so với thời điểm cách đây một thập kỷ. Các hộ gia đình ở Anh và Tây Ban Nha vẫn chưa giải quyết được gì đáng kể tình hình nợ nần, nên khả năng chi tiêu cá nhân còn bị kìm hãm trong thời gian tới là rất cao. Thêm vào đó, với gánh nặng nợ nần gia tăng, chính phủ các nước giàu sẽ gặp khó trong việc vay mượn thêm để bù đắp cho sự sa sút của nhu cầu tư nhân.

Do vậy, sự tương phản với các nền kinh tế đang nổi lên sẽ càng rõ nét hơn. Các nhà đầu tư gần đây đã lo lắng về nguy cơ vỡ nợ của Hy Lạp, và thậm chí là cả một số quốc gia khác trong khu vực sử dụng đồng Euro. Thậm chí cả Anh và Mỹ cũng có thể phải đối mặt với mức chi phí vay nợ gia tăng.

Trong khi đó, những nền kinh tế mới nổi lên lại đương đầu với thách thức hoàn toàn ngược lại: rủi ro bong bóng tài sản xuất hiện khi chính phủ lựa chọn, hoặc buộc phải lựa chọn, việc duy trì chính sách tài khóa và tiền tệ nới lỏng trong một thời gian quá dài. Chính sách tiền tệ nới lỏng tại các nước giàu khiến các nền kinh tế mới nổi khó thực hiện thắt chặt, vì nếu làm vậy, họ sẽ càng thu hút các dòng vốn đầu cơ từ nước ngoài.

Liệu kinh tế thế giới có dịch chuyển trơn chu từ bình ổn sang phục hồi bền vững hay không còn phụ thuộc vào việc những khác biệt nói trên giữa hai nhóm nền kinh tế sẽ được giải quyết ra sao.

Một số lời giải cho bài toán này không khó tìm. Chẳng hạn, nếu Trung Quốc tăng tỷ giá Nhân dân tệ, nền kinh tế của nước này sẽ cân bằng hơn, đồng thời giảm áp lực đối với các nền kinh tế mới nổi khác. Nếu chính phủ các nước giàu đưa ra được kế hoạch khả thi cho việc cắt giảm chi tiêu tài khóa trong trung hạn, thì rủi ro về việc tăng lãi suất trong dài hạn cũng sẽ giảm bớt.

Tuy nhiên, những đánh đổi tất yếu sẽ xảy ra. Thắt chặt tài khóa ở thời điểm này sẽ chặn đứng sự phục hồi kinh tế của các nước giàu. Chính sách tiền tệ thả lỏng ở Mỹ tốt cho kinh tế Mỹ, nhưng sẽ làm căng thẳng thêm những thách thức mà các nền kinh tế mới nổi đang đối mặt.

Đó là lý do tại sao các nhà hoạch định chính sách đang đứng trước những khó khăn lớn về mặt kỹ thuật trong việc rút lui khỏi các kế hoạch kích thích tăng trưởng.

Tệ hơn, những thách thức này xảy đến với các nhà hoạch định chính sách trên một bức màn chính trị u ám. Việc nước Anh mới đây tuyên bố đánh thuế vào tiền thưởng của ngành ngân hàng đã cho thấy, chính sách tài khóa tại các nước giàu có nguy cơ bị ảnh hưởng mạnh bởi sự bất bình gia tăng của dân chúng đối với các ông chủ nhà băng và các gói giải cứu.
Tại Mỹ, sự độc lập của Cục Dự trữ Liên bang (FED) đang đối mặt áp lực phải giảm bớt từ phía Quốc hội. Tỷ lệ thất nghiệp cao cũng đồng nghĩa với nguy cơ gia tăng xung đột thương mại giữa các quốc gia, khi mà các nước tìm cách bảo vệ thị trường việc làm của mình.

Có thể rút ra điều gì từ tất cả thực trạng trên? Những người có quan điểm bi quan thì đề phòng mọi loại cú sốc có thể xảy ra trong năm 2010, từ khủng hoảng nợ công (giả sử Hy Lạp vỡ nợ) tới sự lan tràn của chủ nghĩa bảo hộ. Dễ xảy ra hơn cả là những sự việc kiểu như lợi suất trái phiếu tăng mạnh, hay những quyết định tài khóa “thiển cận” (chẳng hạn như đánh thuế vào các giao dịch tài chính), hoặc đình công đòi tăng lương...

Rõ ràng, lúc này vẫn còn là thời điểm quá sớm để ăn mừng.


(Cổng thông tin kinh tế Việt Nam và thế giới - tinkinhte.com)

  • 10 siêu đại gia Nga trong danh sách đen sẽ bị Mỹ trừng phạt?
  • Liên minh 04 nước đối phó Trung Quốc ở châu Á-TBD?
  • Mỹ - Trung: Đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng 'rút kiếm'
  • Mỹ- Trung và quan hệ 'nước lớn kiểu mới'
  • Trung Quốc chịu “mở cửa” kiểm toán cho Mỹ
  • Thế giới thực sự có bao nhiêu tỷ phú?
  • Kinh tế thế giới bớt u ám nhờ Đông Á
  • Obama và trò chơi 'hai mặt của đồng tiền'
  • Sự thiếu hụt dầu sẽ xuất hiện vào 2011
  • Kinh tế thế giới 2010: khó khăn phía trước
  • Năm 2009: Kinh tế phục hồi nhưng chưa vững chắc
  • Eurasia Group dự báo: 10 rủi ro địa-chính trị lớn nhất năm 2010
  • IMF nhận định kinh tế phục hồi mạnh hơn dự kiến
  • Sự phục hồi của kinh tế thế giới năm 2009 và nhu cầu về cải tổ cơ cấu
  • Tháp Dubai "chỉ thể hiện quyền lực của đồng tiền"
  • Nga dự đoán về tình hình thế giới năm 2010