Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Tìm hiểu về chiến lược năng lượng của các quốc gia trên thế giới

Chiến lược năng lượng mới của Ấn Độ
( Hoàng Hà// Đất Việt )

Nhận rõ vai trò quan trọng của năng lượng tái tạo, Ấn Độ đang phấn đấu trở thành nước dẫn đầu thế giới về kỹ thuật khai thác năng lượng gió, mặt trời và sinh khối.

Theo Bộ trưởng Bộ Các nguồn Năng lượng Mới của Ấn Độ, Vilas Muttemwar, họ là nước đứng trong nhóm đầu tiêu thụ xăng dầu trên thế giới, với 32 triệu tấn dầu thô sản xuất trong nước và 99 triệu tấn nhập khẩu mới đủ đáp ứng nhu cầu mỗi năm. Để bảo đảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% mỗi năm, Ấn Độ cần từ 800.000 đến 950.000 MW điện vào năm 2030.

Nhằm giảm lệ thuộc vào nguồn dầu mỏ ngày càng cạn kiệt, Ấn Độ đang đẩy mạnh đa dạng hóa nguồn năng lượng và đặt mục tiêu cho việc sản suất năng lượng tái tạo chiếm 50% nhu cầu năng lượng của nước này vào 2050 (mức hiện nay là 5%).

Phát triển mạnh nhiên liệu sinh học (DO)

Ấn Độ là cái nôi của công nghệ sản xuất diesel từ hạt cây Jatropha (cây dầu mè). Jatropha có khả năng chịu hạn, bảo vệ đất, chóng xói mòn, có thể trồng trên vùng đất đai cằn cỗi, đất cát ven biển, ven đường, đất bờ kênh ven suối, hầu như không cần chăm sóc, có khả năng phát triển nhằm phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, cải thiện môi trường, tạo việc làm và giúp xoá đói giảm nghèo.

 Các trạm xăng diesel sinh học xuất hiện ngày càng nhiều ở Ấn Độ
 Các trạm xăng diesel sinh học xuất hiện ngày càng nhiều ở Ấn Độ. Ảnh: imageshack.us


Vì vậy, trong báo cáo năm 2003, Ủy ban Phát triển Nhiên liệu Sinh học (NOVOD) thuộc bộ Phát triển Nông thôn Ấn Độ lập dự án trồng và được Chính phủ quyết định đầu tư đến năm 2020 phát triển cây Jatropha trên diện tích 11,2 triệu ha đất thoái hóa, bỏ hoang và các loại đất khác có thể canh tác. Trong đó, giai đoạn 2008-2009 là 3,1 triệu ha.

Năng suất hạt của cây Jatropha trung bình có thể thu được 5-6 tấn một ha mỗi năm ở vùng đất cằn cỗi, không được tưới nước và 10-12 tấn hạt một ha mỗi năm ở vùng ẩm quanh năm. Hàm lượng dầu đạt khoảng 35-40%. Nếu chiết ép tốt, từ 3 đến 3,5 kg hạt sẽ cho một lít dầu diesel sinh học thô.

Với diện tích gieo trồng rộng tới 11,2 triệu ha, mỗi năm Ấn Độ có thể thu được ba triệu tấn “nhiên liệu sạch”. Theo đó, “Ấn Độ có thể tiết kiệm 95 tỷ rupi mỗi năm”, Bộ trưởng Phát triển nông thôn Prasad Singh phát biểu. Với những lợi thế tự nhiên của mình, Ấn Độ đang nắm trong tay cơ hội vô giá.

Bên cạnh nỗ lực của Chính phủ, các công ty tư nhân cũng nhận thấy tiềm năng của việc sản xuất nhiên liệu sinh học. Năm 2008, Công ty Reliance Industries triển khai dự án trị giá 500 triệu USD xây dựng nhà máy tinh chế dầu diesel sinh học và khai thác 200 ha đất tại bang Andra Pradesh để trồng cây nguyên liệu Jatropha.

Sản xuất khí đốt từ mía

Là nước trồng mía lớn thứ hai thế giới hiện nay, Ấn Độ ưu tiên dùng mía làm nguồn nguyên liệu để sản xuất khí Ethanol, nguồn năng lượng thay thế sẽ đem lại lợi nhuận đáng kể trong những năm tới.

Vì vậy, Ấn Độ khuyến khích sử dụng Ethanol để giảm thiểu dùng ngoại tệ mạnh vào việc nhập khẩu xăng dầu. Thêm nữa, việc này tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân trồng mía và công nhân nhà máy sản xuất Ethanol, cùng với đó là hạn chế được ô nhiễm môi trường.

 Mô hình sản xuất năng lượng điện sinh học ở Ấn Độ.
 Mô hình sản xuất năng lượng điện sinh học ở Ấn Độ.


Khí Ethanol là một trợ thủ đắc lực cho động cơ vì nó giúp đốt hết lượng nhiên liệu được bơm vào xe, đem lại hiệu quả kinh tế của các phương tiện di chuyển bằng xăng dầu tăng từ 7 đến 10% tùy theo tỷ lệ lượng Ethanol thêm vào. Chính lợi thế này làm cho các nhà khoa học nỗ lực tìm những phương pháp hữu hiệu để tăng năng suất điều chế Ethanol từ mía.

Ấn Độ đang áp dụng công nghệ mới trong việc điều chế Ethanol trực tiếp từ nước mía ép, mà không qua giai đoạn cô nước mía thành mật đường (molasse). Kỹ thuật này sẽ giảm rất nhiều chi phí sản xuất. Năm 2001, Ấn Độ sản xuất 7,6 triệu tấn Ethanol nguyên chất và trung bình có 5% lượng Ethanol được pha trong xăng dầu căn cứ theo Viện định chuẩn Ấn Độ về xăng dầu (BISP).

Gió, nguồn năng lượng sạch vô tận

Năng lượng gió của Ấn Độ phát triển rất mạnh kể từ khi trang trại năng lượng gió đầu tiên được xây dựng năm 1986 ở Mandivi, bang Guarat với công suất chỉ có 55 MW.

Hiện, Ấn Độ vượt Đan Mạch đứng thứ 4 thế giới, sau Đức, Tây Ban Nha và Mỹ với sản lượng điện gió khoảng 4.300 MW/năm. Dự kiến sản lượng điện gió của Ấn Độ sẽ lên tới 9.300 MW vào năm 2012.

Theo Tiến sĩ Anil Kane, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Gió của Ấn Độ, đây là một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất của đất nước này. Với tốc độ các trạm năng lượng gió mới đang được xây dựng, trong 2 năm tới công suất từ gió sẽ từ mức hiện nay là 3.595 MW tăng lên 5.000 MW.

Theo ước tính của hiệp hội Năng lượng Gió Ấn Độ, tiềm năng của năng lượng gió sau khi xây dựng năm đến sáu trăm trụ cột khí tượng xung quanh Ấn Độ sẽ đạt ít nhất là 100.000 MW.

 
Chiến lược năng lượng “đồ sộ” của Trung Quốc
( Hải Hà dịch // CE// Vitinfo )

Gần đây trong lần trả lời phóng vấn trước giới truyền thông, bộ trưởng Năng lượng Trung Quốc Trương Quốc Bảo tiết lộ, chiến lược tích trữ dầu mỏ của nước này đang hoàn thành một cách thuận lợi và không chịu bất cứ một ảnh hưởng nào từ thị trường dầu mỏ quốc tế.

Lô dự trữ dầu mỏ đầu tiên của  Trung Quốc bao gồm Chấn Hải, Lô Sơn, Đại Liên và Hoàng Đảo đã hoàn thành. Theo bộ trưởng Năng lượng Trương Quốc Bảo, các lô dự trữ này của Trung Quốc đã đi vào hoạt động.

Trung quốc 8 chiến lược lớn về năng lượng
( Theo TTXVN)

Các nhà kinh tế Trung Quốc dự báo rằng tới năm 2020 nhu cầu năng lượng của Trung Quốc còn thiếu khoảng hơn 200 triệu tấn. Phó Thủ tướng Trung Quốc Tăng Bồi Viêm vừa qua cũng chỉ ra rằng tác động ràng buộc của nguồn năng lượng đối với phát triển kinh tế xã hội của Trung Quốc này càng tăng lên, thời gian tới nguồn cung cấp các loại tài nguyên và khoáng sản như đất đai, nguồn nước, dầu lửa, sắt, đồng sẽ ngày càng khan hiếm, nhưng nguy cơ khan hiếm và thiếu hụt lớn nhất đối với kinh tế Trung Quốc vẫn là dầu lửa. Điều này buộc Trung Quốc phải tăng cường dự trữ dầu lửa.
1/ Phải kiên trì đặt tiết kiệm năng lượng lên vị trí hàng đầu, thực hiện chế độ và biện pháp tiết kiệm năng lượng một cách toàn diện, nghiêm ngặt, nâng cao một cách rõ rệt hiệu quả sử dụng năng lượng.

2/ Phải ra sức điều chỉnh và hợp lý hoá tới mức cao nhất cơ cấu năng lượng, kiên trì chiến lược lấy than làm chính, lấy điện lực làm trung tâm, phát triển toàn diện dầu khí và nguồn năng lượng mới.

3/ Phải làm tốt bố cục phát triển hợp lý năng lượng, phải chiếu cố tới nhu cầu phát triển miền Đông và miền Tây, giữa phát triển kinh tế xã hội ở thành thị và nông thôn, đồng thời phải tính toán bố trí hợp lý giữa sản xuất, vận chuyển và tiêu thụ năng lượng, thúc đẩy phát triển hài hoà giữa năng lượng và giao thông.

4/ Phải lợi dụng đầy đủ hai nguồn năng lượng, hai thị trường ở trong và ngoài nước, phải xuất phát từ thăm dò, khai thác và xây dựng nguồn năng lượng trong nước làm chính, đồng thời tích cực tham gia vào hợp tác và khai thác nguồn ngăng lượng trên thế giới.

5/ Phải dựa vào tiến bộ và sáng tạo mới của khoa học kỹ thuật.

6/ Phải thiết thực tăng cường bảo vệ môi trường, xem xét đầy đủ các yếu tố ràng buộc và khả năng chịu đựng của môi trường.

7/ Phải coi trọng cao độ về an toàn năng lượng, thực hiện tốt đa nguyên hoá về cung cấp năng lượng, tăng cường xây dựng dự trữ chiến lược xăng dầu, kiện toàn hệ thống dự báo khẩn cấp về an toàn năng lượng.

8/ Phải định ra được các biện pháp đảm bảo phát triển năng lượng, hoàn thiện chính sách nguồn tài nguyên năng lượng và chính sách phát triển năng lượng, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế thị trường, tăng thêm đầu tư cho lĩnh vực năng lượng.
 

Ngoài hoạt động tích trữ dầu mỏ trên, Trung Quốc còn tham gia vào một loạt các hợp đồng hoán đổi dầu mỏ lớn đối với Nga, Brazil và Argentina, đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm tích cực của các giới. Các chuyên gia phân tích cho rằng, đối với chiến lược năng lượng của Trung Quốc,  "ẩn sâu" trong đó sẽ là: Trung Quốc đang từ bỏ phương thưc dự trữ đơn lẻ trên biển cũng như đất liền mà đi theo phương án dự trữ hợp tác. Cùng với đó, Trung Quốc đã dùng một khoản tiền dự trữ bằng đồng USD để tham gia vào các hợp đồng đổi dầu lấy khoản vay, cách làm này của Trung Quốc có thể điều chỉnh được cơ cấu dự trữ ngoại hối của mình cũng như thúc đẩy những nguồn dự trữ ngoại hối khổng lồ của Trung Quốc phát huy được tác dụng tích cực.

Một tháng trước,  tại Bắc Kinh, Trung Quốc và Nga đã cùng nhau tham gia cuộc hội đàm lần thứ ba về hợp tác năng lượng, ngày 17/2 phía Trung Quốc và Nga cùng nhau thông qua được hiệp định đổi dầu lấy khoản vay.

Ba hợp đồng béo bở về năng lượng của Trung Quốc

Theo như bản hợp đồng đã ký kết song phương,  Trung Quốc sẽ chi cho hai công ty của Nga là Công ty dầu mỏ quốc gia Rosneft và Công ty đường ống dầu mỏ Transneft khoản vay trị giá 25 tỷ USD, đổi lại phía Nga sẽ cung ứng cho Trung Quốc 300 triệu tấn dầu thô trong các năm từ 2011 đến năm 2030.

Hai ngày sau đó, Trung Quốc cũng đạt được thỏa thuận đổi dầu lấy khoản vay trị giá 10 tỷ USD với Brazil. Thời gian gần đây, Brazil đã phát hiện được các mỏ dầu tiềm tàng, và Brazil đương nhiên trở thành một trong những nước xuất khẩu dầu mỏ quan trọng của Thế giới, đây cũng chính là nền tảng mở rộng khung hợp tác năng lượng song phương Trung Quốc – Brazil.

Ngoài những hợp đồng năng lượng béo bở được ký giữa Trưng Quốc với Nga và Brazil, “đổi dầu lấy khoản vay” còn chính là trọng tâm trong hợp tác năng lượng Trung Quốc – Venezuela.

 “Đổi khoản vay lấy dầu” hay là  đổi “tài sản” lấy” năng lượng”

Ông Lý Tài Nguyên - chủ nhiệm cơ quan nghiên cứu thuộc tập đoàn Citic tại Trung Quốc cho rằng, thông qua hợp đồng đổi dầu lấy khoản cho vay, các nước công nghiệp và các nước phong phú tài tài nguyên có thể cùng chung lợi ích.

Các khoản vay trở thành nguồn tiền mà sinh ra lợi tức - đó được coi là một loại tài sản, dầu thô là một loại tài nguyên có nhiều tác dụng, “lấy khoản vay đổi lấy dầu thực chất là một hình thức lấy tài sản đổi lấy tài nguyên”.

Hợp tác năng lượng là sự chuyển biến mạnh của kinh tế toàn cầu sau khi khủng hoảng tài chính nổ ra, đồng thời cũng là thử nghiệm đầu tiên của người Trung Quốc trong quy mô của nền tài chính năng lượng quốc tế, nó mang ý nghĩa chiến lược đó là thay đổi các chính sách về năng lượng của Trung Quốc trong quá khứ - ông Lý nhấn mạnh.

Dầu thô là một loại tài nguyên thiên nhiên, mức giá khai thác cũng như mức giá tinh luyện luôn được tính toán là khá thấp, vậy giá dầu cao chủ yếu là do sự khan hiếm và tính độc quyền của nó. Giá dầu cao không chỉ có lợi cho các nước sản xuất  dầu mỏ, đồng thời cũng mang lại lợi ích cho các  công ty năng lượng của Phương Tây – ông Lý phân tích.

Theo ông Lý Tài Nguyên, sự đạt được về thỏa thuận đổi khoản vay lấy dầu giữa nước tiêu thụ - Trung Quốc và các nước sản xuất như Nga, Brazil là bước đi đầu tiên trong tiến trình cải cải biến những khó khăn  khi sự bất hợp lý trong ngành tài chính năng lượng xuất hiện.

Sự đạt được trong thỏa thuận đổi khoản vay lấy dầu  nhằm tiến tới sự đa dạng hóa cũng như sự phân chia rủi ro trong các nước xuất khẩu và nhập khấu dầu mỏ. Việc đa dạng hóa cuối cùng cũng dẫn đến sự hợp lý hóa nhằm mang lại lợi ích cho việc ổn định giá dầu quốc tế.


Chiến lược năng lượng của các nước Trung Á
( Thị trường Việt Nam )

Trong bối cảnh thị trường dầu mỏ lên ngôi như hiện nay, nguồn dầu mỏ giàu có của Trung Á được cả thế giới xem trọng, khu vực này được mệnh danh là “Căn cứ năng lượng của thế kỷ 21”. Tuy nhiên, do các nhân tố về chính trị, lịch sử nên việc xuất khẩu dầu mỏ của Trung Á cũng không được thuận lợi. Trong những năm gần đây, các nước Trung Á luôn hy vọng có thể đa dạng hóa các kênh cung ứng năng lượng của mình.

 Bản đồ các nước khu vực Trung Á
 Bản đồ các nước khu vực Trung Á

Trữ lượng dầu mỏ khí đốt phong phú

Hiện tại, khủng hoảng năng lượng đang ngày càng hiện rõ, Trung Á với nguồn dầu khí phong phú được mệnh danh là “căn cứ năng lượng của thế kỷ 21”. Từ sự phân bố nguồn dầu khí cho thấy, nguồn năng lượng của khu vực chủ yếu tập trung ở Kazakhstan, Turkmenistan và Uzbekistan. Cựu Tổng thống Turkmenistan – ông Saparmurat Niyazov đã từng tuyên bố rằng, “thế kỷ 21 sẽ là thời đại hoàng kim của Turkmenistan”. Ông quyết tâm phải biến nước này nhanh chóng trở thành “Kuwait của Trung Á”. Cùng với việc đường ống khí đốt Trung Quốc – Trung Á chính thức được đi vào hoạt động từ cuối năm ngoái, Tổng thống Kazakhstan Nursultan Nazarbayev cho rằng, con đường tơ lụa cổ đại sẽ được hồi sinh.

Trữ lượng dầu mỏ của Kazakhstan phong phú, chiếm vị trí thứ 7 trên thế giới. Theo số liệu mà Ủy ban trữ lượng Kazakhstan công bố, trữ lượng dầu mỏ có thể khai thác của toàn quốc gia này hiện nay là 4 tỷ tấn, trữ lượng khí đốt có thể khai thác là 3000 tỷ m3. Vùng biển Caspi thuộc Kazakhstan là khu vực có lượng khai thác dầu mỏ với tiềm lực  lớn nhất của nước này. Tài liệu của Cơ quan thông tin năng lượng thuộc Bộ Năng lượng Mỹ cho thấy, tổng trữ lượng dầu mỏ của vùng biển Caspi (thuộc Kazakhstan) đạt khoảng 101 – 109 tỷ thùng, chiếm khoảng một nửa trữ lượng của cả khu vực biển Caspi, tổng trữ lượng khí đốt là 153300 m3, chiếm khoảng 1/3 tổng trữ lượng cả vùng biển Caspi. Theo dự đoán của các cơ quan chính phủ Kazakhstan, đến năm 2010, sản lượng dầu thô Kazakhstan sẽ đạt 80 triệu tấn/năm, sản lượng khí đốt là 40 tỷ m3/năm; Đến năm 2015, sản lượng dầu thô của Kazakhstan sẽ đạt 130 triệu tấn/năm, sản lượng khí đốt đạt 80 tỷ m3/năm.

Khai thác và sản xuất dầu mỏ của Turkmenistan là ngành công nghiệp trụ cột của quốc gia này. Trữ lượng khí đốt trong tương lai là 24600 tỷ m3, đứng vị trí thứ 4 thế giới, chiếm khoảng 12,7% tổng trữ lượng toàn thế giới; Trữ lượng dầu mỏ trong tương lai là 20,8 tỷ tấn. Hiện tại, mỗi năm sản xuất khoảng 70 tỷ m3 khí đốt, dầu mỏ là 10 triệu tấn. Trước mắt, Turkmenistan đã đầu tư khai thác 50 mỏ dầu, với trữ lượng thăm dò khí đốt dư thừa khoảng 2700 tỷ m3, chuẩn bị đầu tư khai thác 11 mỏ dầu, với trữ lượng khí đốt thăm dò là 257 tỷ m3,đồng thời đã thăm dò kỹ 73 mỏ dầu, với trữ lượng khí đốt thăm dò khoảng 3000 tỷ m3, đã niêm phong 11 mỏ dầu, với trữ lượng thăm dò là 135,1 tỷ m3, tiềm lực trữ lượng khí đốt thăm dò của Turkmenistan khá lớn. Tổng sản lượng khí đốt năm 2010 dự đoán có thể đạt 115 tỷ m3, 2015 – 2020 sẽ đạt 140 tỷ m3.

Nguồn tài nguyên dầu khí của Uzbekistan cũng khá dồi dào. Trữ lượng công nghiệp dầu mỏ dự đoán sẽ đạt trên 5,3 tỷ tấn, trữ lượng đã thăm dò là 548 triệu tấn, lượng khai thác hàng năm đạt hơn 7,2 triệu tấn, chiếm 0,1% lượng khai thác cả thế giới; trữ lượng khí đốt dự đoán cũng vượt quá 5430 tỷ m3, trữ lượng đã thăm dò là 2055 tỷ m3, chiếm 2,2% tổng lượng khai thác cả thế giới.

Tuy nhiên, sự phân bố năng lượng khu vực Trung Á không đồng đều, khiến cho sự va chạm giữa các nước xảy ra không ngừng. Khu vực Trung Á có hai con sông đó là sông Amu Darya và sông Syr Darya. Tajikistan và Kyrgyzstan nằm ở thượng nguồn, có đa số nguồn tài nguyên nước, nhưng thiếu năng lượng và nguồn khoáng sản khác. Kazakhstan, Uzbekistan và Turkmenistan nằm ở hạ nguồn, với nguồn tài nguyên phong phú, nhưng lại thiếu hụt nguồn tài nguyên nước. Thời kỳ Xô Viết cũ, Trung Á đã xây dựng một hệ thống thủy lợi và điện chung, trên thượng nguồn xây một trạm thủy điện cỡ lớn, mùa hè xả nước phát điện, cung cấp nước cho vùng hạ lưu, khi mùa đông dự trữ nước, Tajikistan và Kyrgyzstan sẽ nhận được nhiên liệu và điện do Kazakhstan, Uzbekistan dưới hạ lưu cung cấp. Hệ thống này đã bị phá hủy khi Liên Xô cũ giải thể và các quốc gia Trung Á giành được độc lập. Mấy năm trở lại đây, sự mất cân bằng dự trữ năng lượng và việc sự dụng bất hợp lý đã khiến va chạm giữa các nước Trung Á xảy ra liên tiếp.

Xác định rõ chiến lược “đa dạng hóa xuất khẩu”

Thời kỳ dầu khi Liên Xô giải thể, các quốc gia Trung Á mặc dù đã giành được quyền kiểm soát mạng lưới dầu khí của mình, nhưng vẫn không thể nắm được quyền chủ động sử dụng năng lượng của cho mình. Đường ống dẫn khí Trung Á đa số là do Nga kiểm soát, giá xuất khẩu tương đối xa rời giá thị trường quốc tế. Nút thắt xuất khẩu năng lượng đã kìm hãm sự phát triển của các cường quốc năng lượng Trung Á, cũng thúc đẩy họ tiến hành thử nghiệm đa dạng hóa và từ từ xác định rõ chiến lược phát triển “đa dạng hóa kênh xuất khẩu năng lượng”.

Sau khi độc lập, về mặt ngoại giao, Kazakhstan vẫn đang theo đuổi sự cân bằng trong chiến lược đa phương, chiến lược năng lượng của quốc gia này chủ trọng hợp tác tác với các cường quốc. Do có mối quan hệ chính trị kinh tế đặc biệt với Nga, việc phát triển quan hệ năng lượng với Nga vẫn là lựa chọn ưu tiên của Kazakhstan. Mối quan hệ song phương giữa Kazakhstan và Mỹ, Liên minh châu Âu EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc đang không ngừng phát triển, mấy năm gần đây, đã thiết kế và thực thi được nhiều kênh xuất khẩu. Theo quan điểm truyền thống, nhánh dẫn khí chủ yếu nối kết với Nga, nhưng để thích ứng với chiến lược ngoại giao của mình, sau đó, Kazakhstan đã sửa đường ống dẫn dầu tại biển Caspi. Đường ống này chủ yếu là cung ứng cho các nước phương Tây như Mỹ, Tây Âu, đồng thời việc sửa đường ống dẫn khí thông qua Trung Quốc cũng lựa chọn tất nhiên phù hợp với lợi ích của các Kazakhstan.

Kể từ khi độc lập đến nay, Turkmenistan đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế của các “cường quốc dầu khí”, thu hút rộng rãi nguồn vốn nước ngoài. “Chiến lượng cải cách kinh tế xã hội đến năm 2020” mà cựu tổng thống Niyazov vạch ra đã hoạch định chiến lược đa dạng hóa xuất khẩu năng lượng, đã xác định chiến lược phát triển công nghiệp dầu mỏ khí đốt và nhiệm vụ ưu tiên ngành công nghiệp dầu mỏ khí đốt. Sau nhiều nỗ lực không ngừng nghỉ, Turkmenistan đã giành được nhiều tiến triển trọng đại trong phương diện xây dựng nhánh xuất khẩu mới. Năm 1998, Turkmenistan mở một nhánh đường ống khí đốt xuất khẩu sang Iran. Năm 2009, đường ống khí đốt Trung Quốc – Trung Á cũng là một chiến lược quan trọng của việc đa dạng hóa xuất khẩu của Turkmenistan. Ngoài ra, Turkmenistan cũng dự định cung cấp khí đốt cho đường ống Nabucco vòng qua Nga mà Mỹ và EU hỗ trợ, đồng thời rất hứng thú với dự án đường ống khí giữa Turkmenistan - Afghanistan - Pakistan - Ấn Độ.

Uzbekistan cũng đã hoạch định chiến lược đa dạng hóa xuất khẩu năng lượng trong phương diện xuất khẩu dầu mỏ khí đốt. Uzbekistan có nhánh đường ống và mạng lưới nhánh dẫn khí đồng bộ và phát triển, nhưng đường ống này phải đi qua Nga. Do đó, Uzbekistan tích cực hợp tác năng lượng với Mỹ, Nhật Bản và các nước phát triển khác, đồng thời tích cực mở một đường ống khác vận chuyển dầu khí từ biển Caspi vòng qua Nga.

 
Chiến lược năng lượng mới của Nhật Bản
(Tất Thắng// chinhphu)

Năm mục tiêu cụ thể của Nhật Bản từ nay đến năm 2030 gồm nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng lên 30%; giảm tỷ lệ phụ thuộc vào dầu mỏ từ mức 50% hiện nay xuống còn 40% hoặc thấp hơn; giảm tỷ lệ phụ thuộc vào dầu mỏ của ngành giao thông vận tải từ mức gần 100% xuống còn 80%; tăng khả năng sản xuất điện hạt nhân từ 30% lên hơn 40% và nâng tỷ lệ nhập khẩu dầu thô Nhật Bản có quyền khai thác ở bên ngoài từ 15% lên 40%.

Chiến lược năng lượng quốc gia mới nhấn mạnh 3 mục tiêu cơ bản, đó là đảm bảo an ninh năng lượng, giải quyết đồng bộ vấn đề năng lượng-môi trường và đóng góp tích cực vào việc giải quyết những vấn đề liên quan tới nhu cầu tiêu thụ năng lượng của thế giới. So với những chính sách trước đây, chính sách năng lượng mới của Nhật Bản đặc biệt coi trọng nội dung bảo đảm an ninh năng lượng. Để giảm bớt sự phụ thuộc vào dầu mỏ của ngành giao thông vận tải, Nhật Bản sẽ tăng cường sử dụng nhiên liệu tổng hợp hoặc dầu sinh học được sản xuất từ các loài thực vật.

Đồng thời, Chính phủ Nhật Bản cũng sẽ thông qua chính sách hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu, phát triển kỹ thuật của các nghiệp đoàn ô tô và đặt mục tiêu nâng tỷ trọng điện hạt nhân trong tổng lượng điện tiêu thụ của nước này vượt mức 1/3 như hiện nay.


Nga thông qua chiến lược năng lượng tới năm 2030
(HL //Theo Xinhua, Itar-Tass//cpv)

Ngày 26/11/2009, chính phủ Nga đã chính thức thông qua một chiến lược năng lượng cho tới năm 2030, trong đó dự báo gia tăng khối lượng sản xuất năng lượng và giảm bớt phụ thuộc vào các nguồn lực tự nhiên.

Thủ tướng Nga Vladmir Poutine đã yêu cầu Bộ Năng lượng, Bộ Phát triển Kinh tế, Bộ Các nguồn lực tự nhiên và Tập đoàn năng lượng nguyên tử Rosatom cần thực hiện nghiêm chỉnh chiến lược mới được đưa ra; đồng thời cung cấp các bản báo cáo định kỳ hàng năm cho chính phủ.

Chiến lược năng lượng mới bao gồm các kế hoạch nhằm gia tăng khối lượng sản xuất dầu mỏ hàng năm từ 530 – 535 triệu tấn, sản lượng khí đốt tự nhiên từ 885 - 940 tỷ m3 và sản lượng điện từ 1.800 – 2.200 tỷ kw/h vào năm 2030.

Khối lượng dầu thô và các sản phẩm dầu tinh chế xuất khẩu sẽ đạt tới 329 triệu tấn và khối lượng khí đốt tự nhiên xuất khẩu sẽ đạt từ 349 – 368 triệu m3 trong cùng thời gian này.

Chiến lược năng lượng của Nga được đưa ra gồm ba giai đoạn phát triển năng lượng. Theo đó, mục tiêu chính của giai đoạn thứ nhất sẽ nhằm giảm thiểu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến lĩnh vực năng lượng cũng như tạo tiền đề cho quá trình phát triển sau khủng hoảng. Giai đoạn thứ hai sẽ tập trung vào vấn đề nâng cao hiệu quả năng lượng. Đến cuối giai đoạn thứ ba, Nga kỳ vọng sẽ tận dụng được tối đa hiệu quả của các nguồn năng lượng truyền thống và sẵn sàng cho công đoạn chuyển đổi sang các nguồn năng lượng thay thế.

Cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu đã để lại những tác động nặng nề đối với nền kinh tế Nga vốn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu năng lượng và nguyên liệu thô./.


Nga: 20 năm tới sẽ đầu tư 600 tỷ USD vào dầu mỏ
( Theo Vitinfo )

Theo báo cáo đánh giá chiến lược năng lượng Nga công bố ngày 26/11, từ năm 2009 đến năm 2030, Nga sẽ đầu tư khoảng 609 tỷ USD – 625 tỷ USD cho lĩnh vực dầu mỏ.

Chiến  lược năng lượng được phân thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (giai đoạn sau khủng hoảng) từ năm 2013 – 2015; Giai đoạn 2 từ năm 2020 – 2022; Giai đoạn 3 là những năm trước 2030.

Tổng số tiền đầu tư vào dầu mỏ trong giai đoạn 1 ước tính khoảng 162 tỷ USD – 165 tỷ USD, trong đó bao gồm 111 tỷ USD dành cho việc khai thác và thăm dò; Giai đoạn 2 sẽ đầu tư khoảng 134 tỷ USD – 139 tỷ USD; Giai đoạn 3 sẽ đầu tư khoảng 313 tỷ USD đến 321 tỷ USD.

Việc khai thác lượng dầu mỏ năm 2030 sẽ được nâng thêm 10%, tăng từ 530 triệu tấn lên 533 triệu tấn. Trong đó, lượng dầu mỏ khai thác trong giai đoạn 1 ước tính có thể đạt 486 triệu tấn – 495 triệu tấn. Giai đoạn 2 là 505 triệu tấn – 525 triệu tấn.

Được biết, sản lượng dầu mỏ năm 2008 của Nga giảm 0,7% so với cùng kỳ, với sản lượng đạt khoảng 488 triệu tấn.

Một trong những nhiệm vụ chiến lược trong ngành công nghiệp năng lượng dầu mỏ là tối đa hoá việc thu hồi và sử dụng nguồn dầu khí. Chiến lược năng lượng quy định, vào thời điểm cuối giai đoạn 1 (trước năm 2015) sẽ sử dụng có hiệu quả 95% nguồn dầu khí đã khai thác. 


Mục tiêu, chiến lược năng lượng quốc gia của Singapore
(Thương Vụ Việt Nam tại Singapore)

Bộ trưởng Công Thương, ông Lim Hng Kiang đã thay mặt Chính phủ Singapore công bố “Báo cáo Chính sách Năng lượng Quốc gia Singapore”.
Đây là lần đầu tiên Singapore hoạch định chính sách năng lượng cho phát triển, đặt cần bằng cả 3 mục tiêu: Cạnh tranh kinh tế, an ninh năng lượng và bền vững môi trường. Báo cáo cũng cho biết mục tiêu cụ thể là tăng giá trị gia tăng năng lượng (Value-add) từ 20 đến 34 tỷ SGD, việc làm 3 lần từ 5.700 lên 15.300 vào năm 2015.
 
Để đạt được các mục tiêu trên Chính phủ Singapore sẽ tập trung vào 6 chiến lược cơ bản:
 
Chiến lược 1:  Thúc đẩy thị trường cạnh tranh
Singapore cam kết thúc đẩy thị trường cạnh tranh để giúp ngành năng lượng có đủ khả năng và đảm bảo tính cạnh tranh kinh tế. Singapore đã tự do thị trường điện, gas và đang xem xét để thị trường bán lẻ điện được tự do cạnh tranh hoàn toàn. Nếu thị trường có thất bại, Singapore sẽ sữ dụng các công cụ thị trường, hoặc áp đặt tiêu chuẩn và các quy định. Singapore sẽ khuyến khích khu vực tư nhân để cải tiến, để đạt được thành công năng lương và môi trường sạch.
 
Chiến lược 2:  Đa dạng hóa cung cấp năng lượng
Chiến lược này giúp Singapore chống lại việc cung cấp bị gián đoạn, tăng giá và các mối đe dọa khác vào lòng tin đối với việc cung cấp. Trong thị trường tự do cạnh tranh, các công ty sẽ tự có các giải pháp khuyến khích để đa dạng và giảm thiếu rủi ro của mình. Vai trò của Chính phủ là phải tạo ra khuôn khổ mở, linh hoạt cho phép thực hiện đa dạng hóa cung cấp.

Do việc chọn lựa các dạng năng lượng của Singapore có hạn, Singapore cũng có những thách thức thực sự đòi hỏi phải đa dạng các dạng nhiên liệu. Điện Hydro, địa nhiệt và gió ở Singapore là không thể. Năng lượng hạt nhân không khả thi vì Singapore nhỏ. Điện mặt trời và than có một ít tiềm năng nhưng vấp phải vấn đề chi phí và rào cản công nghệ cùng với sự lo ngại về môi trường.

Dù sao thì Bản báo cáo cũng khuyến cáo, Singapore không nên từ bỏ bất cứ lựa chọn năng lượng nào, vì khi công nghệ đã được cải tiến, nguồn năng lượng không thể hôm nay nhưng cũng có thể cho Singapore trong tương lai.
 
Chiến lược thứ 3:  Đẩy mạnh tiết kiệm năng lượng
Chiến lược này có thể giúp Singapore đạt được cả 3 mục tiêu chính sách năng lượng. Sữ dụng ít năng lượng giúp Singapore giảm lệ thuộc vào nhập khẩu và tăng an ninh năng lượng, đồng thời cũng giảm được chi phí thương mại, ô nhiểm môi trường và thải khí CO2.

Chính phủ Singapore cũng đã thành lập một Phòng Chương trình Tiết kiệm Năng lượng (Energy Efficiency Programme Office) và đã triển khai một Kế hoạch tổng thể tiết kiệm năng lượng toàn diện (Comprehensive Energy Efficient Masterplan) để thúc đẩy áp dụng các giải pháp và công nghệ tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiểu biết của công chúng, xây dựng khả năng và hiểu biết thành thạo về tiết kiệm năng lượng.
 
Chiến lược 4: Xây dựng công nghiệp năng lượng và đầu tư nghiên cứu & phát triển (R & D)
Singapore có thể biến thách thức về năng lượng thành cơ hội, bằng cách làm cho kinh tế Singapore đáp ứng nhu cầu về năng lượng của thế giới và khu vực đang tăng.

Singapore dự định tăng khả năng lọc dầu để cũng cố vị thế là trung tâm lọc dầu hàng đầu Châu Á. Singapore sẽ mở rộng loạt các sản phẩm năng lượng buôn bán, gồm cả khí tự nhiên hóa lỏng (LNG), nhiên liệu sinh học và chất thải CO2. Singapore cũng sẽ theo đuổi những cơ hội phát triển năng lượng sạch và tái tạo, gồm cả năng lượng mặt trời, nhiên liệu sinh học và tế bào nhiên liệu. Khả năng nghiên cứu & phát triển (R & D) đòi hỏi phải mạnh để giúp phát triển công nghiệp trong các lĩnh vực này, đồng thời giúp Singapore có thể triển khai các giải pháp giải quyết nhu cầu năng lượng riêng của Singapore.
 
Chiến lược 5:  Tăng cường hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế về năng lượng cơ bản giành cho các nước nhỏ và phụ thuộc vào nhập khẩu. Singapore sẽ thúc đẩy mạnh hơn hợp tác quốc tế và khu vực về năng lượng, làm việc với các nước đối tác để tăng cường an ninh cho các tuyến vận tải năng lượng quan trọng.

Singapore cũng đã tích cực thảo luận về năng lượng và các vấn đề liên quan tại các diễn đàn chính, trong Khối ASEAN, APEC và Thượng đỉnh Đông Á (EAS).
Việc chống lại thay đổi khí hậu chỉ có thể có kết quả khi tất cả các nước hành động, Singapore đã tham gia tích cực Hiệp định khung Liên hiệp quốc về thay đổi khí hậu (UNFCCC) và thảo luận thay đổi khí hậu tại nhiều diễn đàn khác.
 
Chiến lược thứ 6:  Triển khai giải pháp tổng thể của chính phủ
Tính phức tạp và tầm quan trọng chiến lược của chính sách năng lượng ngày một tăng đòi hỏi phải có một giải pháp tổng thể của chính phủ. Công việc cũng kéo theo nhiều đơn vị liên quan.

Chính phủ Singapore đã thành lập một Viện nghiên cứu năng lượng (Energy Studies Institute/ESI) tại Đại học Quốc gia Singapore (NUS) để thúc đẩy việc nghiên cứu định hướng chính sách về kinh tế, quan hệ quốc tế và môi trường của năng lượng, cũng như đóng góp vào các cuộc đối thoại và hợp tác năng lượng trong  phạm vi khu vực.
 
Chính sách năng lượng cho phát triển của Singapore đã vạch ra khuôn khổ và chiến lược năng lượng quốc gia nhằm 3 mục đích: cạnh tranh kinh tế, anh ninh năng lượng và bền vững môi trường.

Singapore luôn hiểu biết sự phát triển trong bối cảnh tiến triển năng lượng toàn cầu, sẵn sàng thích ứng các chính sách hiện có và hình thành chiến lược mới khi cần để giúp Singapore luôn là nước đi đầu về năng lượng hỗ trợ kinh tế phát triển liên tục.

( Tinkinhte.com tổng hợp )

  • 10 siêu đại gia Nga trong danh sách đen sẽ bị Mỹ trừng phạt?
  • Liên minh 04 nước đối phó Trung Quốc ở châu Á-TBD?
  • Mỹ - Trung: Đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng 'rút kiếm'
  • Mỹ- Trung và quan hệ 'nước lớn kiểu mới'
  • Trung Quốc chịu “mở cửa” kiểm toán cho Mỹ
  • Thế giới thực sự có bao nhiêu tỷ phú?
  • Kinh tế thế giới bớt u ám nhờ Đông Á
  • Obama và trò chơi 'hai mặt của đồng tiền'
  • Sông Mekong cạn kỷ lục: 60 triệu người bị ảnh hưởng
  • Triển vọng của các nền kinh tế mới nổi
  • Làm sao cứu sông Mê-kông?
  • Sản xuất toàn cầu tăng trưởng trở lại
  • Trung Đông, Nga với "cuộc chiến dầu" ở châu Á
  • Sự kiện và bình luận: Hiệp ước START mới: "Cài đặt lại" quan hệ giữa hai cựu thù
  • Thiên tai cực đoan xảy ra nhiều hơn do biến đổi khí hậu
  • Khu định cư Do Thái: Ngõ cụt của hòa bình Trung Đông