Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Tìm hiểu về chiến lược năng lượng của các quốc gia trên thế giới (2)

Tăng giá dầu mỏ - "đòn chí tử" cho phục hồi kinh tế toàn cầu?
( Thu Hiền //Theo FT//Vitinfo)

Sự phục hồi kinh tế năm 2009 đi liền với mức giá dầu chỉ ở khoảng 62 USD/thùng, không phải là 90 USD/thùng hay 100 USD/thùng như chúng ta có thể sẽ phải chứng kiến trong thời gian tới. Sự tăng lên quá cao của giá dầu như thời gian này sẽ là một đòn chí tử cho kinh tế toàn cầu, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang cố gắng hết sức để tránh nguy cơ bùng nổ thêm một cuộc khủng hoảng nữa.

Trong tuần qua, giá dầu giao dịch trên thị trường có thời điểm đã lên tới 87 USD/thùng, ngưỡng cao nhất kể từ tháng 10/2008, và bắt đầu gây ra những lo ngại rằng mức giá 3 con số có thể sẽ lại một lần nữa xảy ra.

Theo nhận định của giới quan sát, sau 8 tháng liên tiếp được giao dịch trong ngưỡng giá 70 USD/thùng tới 80 USD/thùng - mức giá được cho là thỏa mãn cả người sản xuất và người tiêu dùng - thì sự tăng giá trong những ngày qua đã chứng minh thị trường ngày càng đặt lòng tin vào phục hồi kinh tế thế giới, mặc dù đa số các nhà đầu tư cũng như giới ngân hàng vẫn tỏ ra cẩn trọng về những yếu tố cung cầu cơ bản trên thị trường.

Mặc dù trong hai ngày cuối tuần, giá dầu có giảm nhẹ trước những lo ngại về tình hình tài chính Hy Lạp, tuy nhiên, phố Wall vẫn tin tưởng rằng giá dầu sẽ còn tăng cao hơn nữa, tiêu biểu, Barclays Capital dự đoán giá dầu sẽ tăng lên 97 USD/thùng trong năm tới, Goldman Sachs và Morgan Stanley lần lượt đưa ra các con số dự đoán là 110 USD/thùng và 100 USD/thùng.

Tuy nhiên, giá dầu càng tăng cao, sự lo ngại rằng nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế toàn cầu cũng đồng thời tăng lên. Jeff Rubin, cựu chuyên gia kinh tế của CIBC, tác giá cuốn sách viết về dầu mỏ và sự toàn cầu hóa, khẳng định: "Mức giá dầu tăng lên tới 3 con số đang bắt đầu đe dọa tới phục hồi kinh tế thế giới."

Giá dầu mỏ cũng như một số mặt hàng chính, đặc biệt là quặng sắt và đồng, có thể tiếp tục tăng lên, kéo theo nguy cơ xảy ra lạm phát và buộc ngân hàng trung ương các nước phải tăng lãi suất cho vay cơ bản vốn đang được giữ ở mức quá thấp trong thời gian qua. Đồng thời, nó cũng giúp đẩy mạnh sự tăng giá cổ phiếu của các công ty trong lĩnh vực năng lượng trên các thị trường chứng khoán.

Giá dầu lần đầu tiên đạt mức 100 USD/thùng hồi tháng 1/2008 và tiếp tục tăng lên tới mức giá kỷ lục 147 USD/thùng vào tháng 7 cùng năm trước khi giảm xuống chỉ còn 32 USD/thùng trong tháng 12. Tuy nhiên, giá dầu đã dần dần hồi phục cùng với đà hồi phục của kinh tế toàn cầu sau khủng hoảng. Hôm thứ Năm (07/04), giá dầu thế giới được giao dịch ở mức giá 85 USD/thùng.

Tuy nhiên, khác với năm ngoái khi sự tăng giá của dầu đi kèm với đồng đôla yếu, năm nay, cả giá dầu và và giá đôla cùng đồng loạt đi lên.

Một số chuyên gia kinh tế tin rằng, mức giá dầu được giao dịch ở 80 USD/thùng không gây đe đọa tới mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu 4% mà Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) đã dự đoán cho năm 2010. James Hamilton, chuyên gia kinh tế Đại học California, đã có bài viết về những tác động mà giá dầu cao kỷ lục hồi tháng 7/2008 đã gây ra cuộc khủng hoảng đối với các hộ gia đình trong thời gian đó. Lần này, ông cho rằng, người tiêu dùng đã được chuẩn bị tâm lý để đối phó với sự gia tăng của giá dầu.

Hussein Allidina, chiến lược gia hàng hóa của Morgan Stanley nhận định, mức giá dầu dự đoán 100 USD/thùng cho năm 2011 sẽ làm "gánh nặng dầu mỏ" của thế giới tăng từ con số 2,8% trong năm 2009 lên 4% cho năm sau. Bên cạnh đó, các nước phát triển sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn so với các nền kinh tế mới nổi do các nền kinh tế mới nổi có sức tăng trưởng kinh tế mạnh hơn cũng như có đủ khả năng để trợ cấp nhiên liệu trong nước.

Mặc dù vậy, trong bất cứ trường hợp nào, sự gia tăng giá dầu mỏ cũng mang lại nhiều yếu tố tích cực hơn so với các tác động tiêu cực mà nó gây ra. Lutz Kilian, chuyên gia kinh tế thuộc Đại học Michigan, người đã nghiên cứu về tác động của những cơn sốc giá dầu đối với nền kinh tế cho biết: "Chúng ta không thể có được sự phục hồi toàn cầu mà không đi kèm với sự phục hồi giá dầu mỏ. Vì nhu cầu chi phối giá cả nên cách duy nhất để giữ giá dầu thấp đi là tiếp tục duy trì kinh tế trong khủng hoảng, một điều nghe có vẻ không hấp dẫn gì."

Song, viễn cảnh giá dầu tăng lên quá cao cũng khiến nhiều nhà phân tích lo ngại. Olivier Jakob, chuyên gia kinh tế thuộc công ty tư vấn Petromatrix khẳng định: "Sự phục hồi kinh tế năm 2009 đi liền với mức giá dầu chỉ ở khoảng 62 USD/thùng, không phải là 90 USD/thùng hay 100 USD/thùng như chúng ta có thể sẽ phải chứng kiến trong thời gian tới. Sự tăng lên quá cao của giá dầu như thời gian này sẽ là một nụ hôn tử thần với kinh tế toàn cầu, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang cố gắng hết sức để tránh nguy cơ bùng nổ thêm một cuộc khủng hoảng nữa."



Chiến lược năng lượng nền kinh tế số một châu Âu - Cộng hòa Liên Bang Đức
( Trần Thanh Minh -từ CHLB Đức // Theo TuanVietNam)

Sự đồng thuận xã hội đã đưa nước Đức đi tiên phong dưới ngọn cờ năng lượng sạch. Nhưng tiếng kèn ngập ngừng không biết sẽ đưa ngành điện hạt nhân nước này về đâu.

Đó là cảm nhận của người viết bài này trong dịp dừng chân ở đất nước có nền công nghiệp lớn mạnh nhất châu Âu.

Vai trò nền kinh tế số một châu Âu

Đức là một cường quốc kinh tế trên thế giới. Dân số khoảng 80 triệu người, nhưng tổng sản lượng quốc dân GDP đứng hàng thứ năm toàn cầu và thứ nhất châu Âu.

Là một nước công nghiệp phát triển, tổng điện lượng sử dụng ở nước Đức rất cao, số liệu mới nhất là 639,1 tỷ MWh trong năm 2008. Về mức điện năng tiêu thụ tính trên đầu người, chỉ đứng sau Mỹ, và cùng thứ hạng các nước công nghiệp hàng đầu thế giới, vượt xa nhiều nước châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh. Có thể dẫn ra đây số liệu điện năng tính trên đầu người năm 2003 của một vài nước tiêu biểu sau đây.

Đức - 50.604,92 kWh/người; Anh - 48.648,36 kWh/người; Indonesia – 6290,03 kWh/người. Trong đó, Việt Nam chỉ ở mức 3.546,94 kWh/người; ít hơn Đức khoảng 15 lần.

Nước Đức nằm trong số những nước đi tiên phong trong phát triển các công nghệ năng lượng, tự sản xuất và xuất khẩu thiết bị cho hầu hết các loại nhà máy điện và có vai trò chi phối thị trường quốc tế trong lĩnh vực này.

Cơ cấu điện năng quốc gia CHLB Đức ở thời điểm 2008 như sau: Nhiệt điện than, khí chiếm hơn ½ với 56,6%. Điện hạt nhân gần ¼ với 23,3%. Điện gió đạt 6,3%. Các loại điện khác chiếm phần còn lại với 9,6% (trong đó điện mặt trời khoảng 1%).

Với cơ cấu điện năng toàn diện như trên, Đức trở thành nhà cung cấp lớn công nghệ và thiết bị điện năng đa dạng, nhiều chủng loại cho nhiều nước trên thế giới. Riêng Việt Nam, trong nhiều năm qua, đã nhập nhiều thiết bị, công nghệ sản xuất điện từ CHLB Đức, trừ điện hạt nhân. Gần đây, Đức xuất khẩu sang nước ta nhiều thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời, ngay trong năm 2009 này đã trển khai dự án nhà máy phong điện “Made in Germany” ở Tuy Phong, Bình Thuận với công suất tổng cộng là 120 MW.

Do vậy, mỗi một sự chuyển mình trong chính sách năng lượng của CHLB Đức có tác động lớn đến nhiều nước khác trên thế giới. Và ngược lại, các nước cũng theo dõi sát sao mỗi động thái, tiến hay lùi, của Berlin trong đường hướng phát triển các dạng điện năng, đặc biệt các dạng năng lượng tái tạo như điện gió (hay phong điện), và năng lượng mới như điện hạt nhân (ĐHN).

Phong điện: Ngọn cờ tiên phong

Nước Đức là quốc gia tiên phong phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió. Đức chỉ đứng sau Hoa Kỳ, sau khi vượt lên trên Tây Ban Nha đã trở thành nhà vô địch châu Âu về phong điện. Chiếm hơn 1/3 điện năng gió của thế giới, 1/2 của châu Âu, không có nước nào ở châu lục này có nhiều tuôc bin gió với những 18.685 cỗ máy như CHLB Đức.
Đến năm 2006, công suất điện phát ra là 20.622 MW, tương đương điện lượng sử dụng trong một năm 30,5 tỷ kWh, chiếm tỷ trọng 5% trong cấu trúc năng lượng quốc gia. Hai năm sau, năm 2008, tỷ trọng từ 5% đã tăng lên 6,3%. Ba năm sau, cuối năm 2009 này, công suất điện gió đã tăng thêm từ 20,622 GW (tức 20.622 MW) lên 25 GW.

 Hình 2: Cối xay gió và tuôc bin điện gió trên xa lộ Đức-Hà Lan. Ảnh: TM.
 Hình 2: Cối xay gió và tuôc bin điện gió trên xa lộ Đức-Hà Lan. Ảnh: TM.


Không chỉ về sản lượng, nước Đức còn đi tiên phong trong phát triển công nghệ phong điện. Với chiều dài cánh quạt, chiều cao cột khác nhau và công suất phát điện khác nhau. Từ công nghệ phong điện trên đất liền đến công nghệ mới mẻ và phức tạp ngoài biển.

  Phong điện trên biển Bắc. Ảnh: tư liệu.
Phong điện trên biển Bắc. Ảnh: tư liệu.

Và không chỉ đóng góp đáng kể thị phần điện năng cho đất nước, điện gió góp phần giảm lượng khí thải nhà kính 17 triệu tấn, chỉ trong vài năm gần đây.

Những thành tựu nói trên xuất phát từ đâu? Từ những năm đầu của thập niên 90 của thế kỷ trước, với những tuôc bin gió đầu tiên, phong điện đã nhận được sự ủng hộ tích cực của chính quyền các bang. Và bước đột phá bắt đầu từ đạo luật được Quốc hội Đức thông qua năm 1991 về sự bắt buộc dành ưu tiên cho đầu tư và mua điện gió. Luật Năng lượng mới của Đức quy định, Chính phủ bù lỗ cho mỗi 1 KWh điện gió là 9,1 cent euro, chính sách này kéo dài ít nhất trong 5 năm.

Dĩ nhiên còn những nhược điểm, thậm chí còn nhiều trở ngại cho sự phát triển mở rộng phong điện đến mọi giới hạn tùy ý. Chẳng hạn, giá thành đầu tư cao, những ảnh hưởng tiêu cực đến diện tích canh tác, đến môi trường (tiếng ồn, phá hoại môi sinh…), đến công nghiệp du lịch… Vì vậy, quy mô phát triển điện gió vẫn còn là bài toán kinh tế, xã hội tối ưu cần phải giải đối với nước Đức và các quốc gia khác.

Dù vậy, đối với nước Đức, sự phát triển phong điện hiện nay là thành công ngoạn mục của một tư duy chiến lược phát triển đúng đắn, của sự đồng thuận cao trong xã hội và giữa các đảng phái chính trị, thể hiện qua các chính sách đầu tư, kích thích mạnh mẽ và đầy hiệu quả của các chính phủ kế tiếp nhau ở nước này trong khoảng 15 năm qua.

Điện hạt nhân: Tiếng kèn ngập ngừng

a/ Vẫn là một trụ cột không dễ thay thế

Cũng như phong điện bây giờ, CHLB Đức cũng từng là một trong những nước công nghiệp phát triển đi tiên phong trong làn sóng xây dựng nhà máy điện hạt nhân (NMĐHN). Làn sóng đó xuất phát từ cuộc khủng hoảng giá dầu năm 1974 trở thành mối đe dọa lớn đến an ninh năng lượng quốc gia.

Từ cuối những năm 1950 của thế kỷ trước, CHLB Đức đã tự chủ phát triển công nghệ ĐHN, trước tình thế mới họ càng dốc sức tạo dựng nên một nền công nghiệp ĐHN độc lập góp phần quan trọng bảo đảm nhu cầu điện năng cho sự phát triển nền kinh tế to lớn tiến mạnh về phía trước.

Trong hơn 40 năm qua, ở CHLB Đức đã và đang tồn tại một nền công nghiệp ĐHN đồ sộ. Họ đã từng bước thải loại thế hệ các lò phản ứng đầu tiên, bao gồm lò phản ứng thử nghiệm, nhà máy mô phỏng, những nhà máy ĐHN có công suất nhỏ cùng với 5 lò phản ứng không bảo đảm an toàn ở nhờ máy Greifswald (xem bảng 1).

 Bảng1 – Danh sách 19 NMĐHN được thải loại
Bảng1 – Danh sách 19 NMĐHN được thải loại


Ngoài ra, một số lò phản ứng (4 lò VVER-440s, 1 lò VVER nhỏ, 1 lò đang xây) do Liên Xô trước đây thiết kế, nằm trên lãnh thổ Đông Đức cũ, cũng đã đóng cửa từ khi nước Đức thống nhất năm 1990.

Dù vậy, cho đến thời điểm hiện nay, ở nước Đức vẫn tồn tại một tiềm lực điện hạt nhân hùng hậu với 17 NMĐHN công suất lớn đang ở trạng thái hoạt động (Bảng 2). Với công suất phát điện tổng cộng 21.497 MW, riêng trong năm 2007 các nhà máy đó đã đóng góp cho nhu cầu quốc gia một lượng điện lớn 149 Tỉ kWh.

 Bảng 2- Danh sách NMĐHN trong trạng thái hoạt động (số liệu 1/2009)
Bảng 2- Danh sách NMĐHN trong trạng thái hoạt động (số liệu 1/2009)


Công nghiệp điện hạt nhân, thực sự đang đóng góp ¼ nhu cầu điện năng cho quốc gia, vẫn là một trong những nguồn điện trụ cột chưa có gì thay thế được trong nền công nghiệp nước này.

b/ Bước thăng trầm

Cơn lốc bất ngờ bắt đầu từ hiểm họa Chernobyl năm 1986. Cùng với nhiều nước châu Âu khác như Ý, Thụy Điển, Bỉ, Phần Lan…, nền công nghiệp ĐHN nước Đức bị cuốn vào cơn lốc từ đó.

Sự đồng thuận thời huy hoàng của nền công nghiệp nguyên tử đã dần dần phân liệt, hình thành hai cực, chống hạt nhân và ủng hộ hạt nhân. Một phía gồm Đảng Xã hội Dân chủ (SPD) liên kết với đảng nhỏ - Đảng Xanh (Green) và phía đối lập gồm các Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU), các Đảng Xã hội Thiên chúa giáo Bavaria (CSU) và Đảng Dân chủ Tự do (FDP).

 Bản đồ phân bố các NMĐHN trên nước Đức.
Bản đồ phân bố các NMĐHN trên nước Đức.


Sự phân liệt đó dẫn đến vận hạn nặng nề cho ngành năng lượng nguyên tử, bắt đầu từ tháng 10/1998, khi một chính phủ liên minh được thành lập gồm Đảng lớn SPD và Đảng Xanh, một đảng nhỏ với số phiếu ủng hộ nhỏ nhoi 6,7% nhưng quyết liệt “chống hạt nhân”. Năm 2002, Chính phủ này đã thông qua được Quốc hội một điều luật loại trừ (phase-out) ĐHN với nội dung chủ yếu: cấm xây dựng các NMĐHN mới và ngừng hoạt động các nhà máy qua 32 năm vận hành.

Nhưng rồi, ngọn gió chính trị bắt đầu đổi chiều, khi đảng đối lập CDU giành phần thắng trong cuộc bầu cử năm 2005. Nữ Thủ tướng mới, bà Angela Merkel tuyên bố sẽ đàm phán lại với các nhà công nghiệp hạt nhân về thời hạn đóng cửa các NMĐHN. Các ông chủ nhà máy ĐHN bắt đầu đề xuất kéo dài tuổi đời của các NMĐHN lên 40 năm, và theo gương nước Mỹ, thậm chí đến 60 năm. Tuy vậy, khi trong liên minh cầm quyền còn có mặt cả Đảng SPD, Chính phủ Merkel nhiệm kỳ đầu vẫn cho nằm yên điều luật “phase out”.

Nhưng bước vào cuộc vận động bầu cử mới, từ năm 2008, cơn sóng đòi lật lại điều luật trên lại công khai dấy lên. Vị Thủ tướng sắp mãn nhiệm nhiềm kỳ đầu, Angela Merkel, cất tiếng nói phê phán mạnh mẽ: quyết định loại bỏ các NMĐHN trước đây là "tuyệt đối sai lầm (absolutely wrong)".

c/ Chân trời phía trước

Hai tháng đã trôi qua kể từ khi chính trường nước Đức đổi chiều, chuyển biến theo chiều thuận cho nền công nghiệp hạt nhân với sự kiện nữ Thủ tướng Merkel tiếp tục cầm đầu Chính phủ liên bang thêm một nhiệm kỳ 4 năm nữa, đặc biệt liên minh cầm quyền mới gồm cả 3 đảng đều thân thiện với điện hạt nhân, Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU), Đảng Xã hội Thiên chúa giáo Bavaria (CSU) và Đảng Dân chủ Tự do (FDP).

Các nhà bình luận đều cho rằng sự thay đổi quan trọng nhất trong chính sách kinh tế hẳn liên quan đến vấn đề năng lượng và liên minh cầm quyền mới sẽ xem xét việc kéo dài thời gian khai thác các NMĐHN trong nước. Đó là điều họ từng tuyên bố và rất muốn làm, nhưng không thể thực hiện trong chính phủ cũ.

Họ cũng có các căn cứ để bảo vệ cho đường lối của mình.

Một là, nguồn năng lượng tái tạo trong một hai thập niên tới chưa thể lấp vào chỗ trống thiếu hụt điện năng một khi các NMĐHN buộc phải ngừng hoạt động sớm.

Hai là, để bù vào đó, hẳn phải xây thêm các nhà máy nhiệt điện (than, khí đốt, diezen…). Nhưng như thế lại dẫn đến những hệ lụy, như phụ thuộc lớn hơn nữa đường dây cung cấp đầy bấp bênh từ nước Nga, mặt khác, không thể hạ mức phát thải khí nhà kính mà Chính phủ Đức đã long trọng cam kết và từng là người đi tiên phong trong mục tiêu cấp bách mang tính thế kỷ này.

Ba là, về mặt đối ngoại, như Thủ tướng Merkel từng nói, nước Đức không thể tự cô lập về vấn đề hạt nhân trước các quốc gia G8, và cả với các nước xung quanh như Ý, Thụy điển, Bỉ, Phần Lan… đang từ bỏ con đường quay lưng với ĐHN trước đây của mình.

Tuy vậy, Chính phủ mới, đến giờ phút này vẫn chưa đưa ra tuyên bố chính thức, rõ ràng nào về chiến lược năng lượng mới liên quan đến vấn đề các NMĐHN. Trong lúc đó, họ lại đưa ra tín hiệu quan tâm phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, như tiếp tục đầu tư phát triển điện gió ở ngoài biển, hoặc rút lui ý định cắt giảm sự bảo trợ cho công nghệ điện mặt trời…

Rõ ràng, liên minh ủng hộ ĐHN đang cầm quyền tỏ ra dè dặt trước lực lượng “chống đối hạt nhân”, đang muốn tập hợp thêm sức mạnh đồng thuận, bây giờ và trong cuộc bầu cử bổ sung trong năm tới, nhằm thực hiện thuận lợi hơn mục tiêu chiến lược hướng đất nước trở lại con đường khôn ngoan, thân thiện với công nghệ điện hạt nhân lâu dài hơn. Sự đồng thuận các đảng phái chính trị, đồng thuận xã hội là bài học thành công không chỉ  đối với ngành phong điện nước Đức.

Và như vậy, trong âm vang của tiếng kèn ngập ngừng mang tính sách lược trên chính trường nước Đức hiện nay, người bên ngoài nên biết kiên nhẫn, chờ đợi. Hy vọng của nền công nghiệp hạt nhân nước Đức và những pha gây cấn trên chính trường nước này đang ở phía trước.


Xcốtlen đẩy mạnh phát triển năng lượng biển
(Theo Kinh tế đô thị )

Ông Martin McAdam, Tổng Giám đốc Aquamarine Power đóng trụ sở tại Edinburgh - công ty Anh duy nhất đang phát triển đồng thời điện thuỷ triều và điện sóng biển - dự đoán năng lượng biển có thể tạo việc làm cho hơn 1.000 người ở Xcốtlen. Số lao động tham gia vào công nghiệp dầu mỏ và khí đốt Biển Bắc cuối cùng có thể lên tới 145.000 người nếu lĩnh vực này đạt được triển vọng khả quan.

Ông McAdam đưa ra dự đoán trên khi Viện Cơ khí Anh (IME) công bố một báo cáo, trong đó yêu cầu Chính quyền Xcốtlen đầu tư 40 triệu bảng (61 triệu USD) vào ngành công nghiệp này khi IME chuyển sang thử nghiệm công nghệ về điện thuỷ triều và sóng biển trong môi trường đại dương thực sự. Báo cáo khuyến cáo trong bối cảnh một số công ty cơ khí hàng đầu Xcốtlen đang thử nghiệm hoạt động của các nhà máy mới tại Trung tâm Năng lượng Biển châu Âu do Chính phủ Anh tài trợ ở Orkney, thì việc thiếu đầu tư vào các nhà máy này sẽ bỏ lỡ một cơ hội to lớn phát triển một trong những công nghệ thay thế triển vọng nhất thế giới.

Chủ tịch IME Bill Banks cho rằng Xcôtlen là địa điểm duy nhất tận dụng được cơ hội trên để phát triển năng lượng biển. Để sử dụng triệt để lợi thế của vị trí này, Chính quyền Xcôtlen phải đóng vai trò lãnh đạo trong việc thúc đẩy dự án trên. Trong những năm qua, một số người vẫn hoài nghi công nghiệp năng lượng biển có thể mang lại triển vọng. Tuy nhiên, lĩnh vực này gần đây đã chứng tỏ nó có thể tạo ra nguồn điện phong phú để đưa vào lưới điện quốc gia. Trong khi đó, ông McAdam cho rằng lý do chính trong việc trì hoãn đầu tư là do tính hung dữ của môi trường đại dương, nơi những cơn bão lớn có thể tạo nên những đợt sóng gió mạnh hơn hàng ngàn lần so với sóng biển bình thường.

Gần đây, Chính phủ Anh đã nhất trí đạt mục tiêu cắt giảm 80% lượng khí thải CO2 vào năm 2050 với việc cam kết khoảng 1/3 sản lượng điện của nước này được tạo ra từ năng lượng thay thế vào năm 2020.

Trong khi đó, Xcốtlen đưa ra những chỉ tiêu tham vọng hơn là giảm 30% khí thải CO2 vào năm 2011 và 50% vào năm 2020. Xcốtlen có vị trí thuận lợi để đối phó với thách thức này vì có nguồn năng lượng tự nhiên hàng đầu thế giới và truyền thống lâu đời về cải tiến cơ khí. Xcôtlen cũng có tiềm năng sản xuất 25% điện sức gió, 25% điện thuỷ triều và 10% điện sóng biển của châu Âu. Ngoài ra, một thế mạnh khác của công nghiệp dầu mỏ và khí đốt Biển Bắc này là có các cơ sở sản xuất và cảng biển cần thiết để xây dựng và phát triển các dự án biển lớn hơn.

Chiến lược phát triển năng lượng của Malaysia
(Theo Kinh tế đô thị )

Tại hội nghị về dầu mỏ và khí đốt châu Á lần thứ 14 tại Kuala Lumpur mới đây, Thủ tướng Malaysia Najib Razak nói rằng ngành công nghiệp năng lượng nước này cần phải phát triển chiến lược chuyển đổi nhằm xác định các nguồn năng lượng có thể thay thế do nhu cầu về năng lượng trên toàn cầu ngày càng gia tăng.

Việc sử dụng năng lượng từ các nguồn thay thế như sức gió, sức nước, ánh nắng mặt trời, sinh học, địa nhiệt sẽ được tăng gấp đôi từ nay cho tới năm 2030 mặc dù dầu mỏ và than vẫn là các nguồn nhiên liệu chính trong những thập kỷ tới.

Mặc dù những nguồn nhiên liệu thay thế nói trên sẽ chỉ đáp ứng 5,9% tổng nhu cầu về năng lượng trong thời điểm đó nhưng để đáp ứng được nhu cầu của người dân thì đòi hỏi chính phủ phải có một chiến lược cụ thể. Để chiến lược này đạt kết quả, điều thiết yếu là phải thúc đẩy nhanh chóng công tác nghiên cứu, phát triển công nghệ để ngành công nghiệp nhiên liệu thay thế này có thể đi vào đời sống một cách hiệu quả, kinh tế và nhanh chóng. Nhân dịp này Thủ tướng Najib đã kêu gọi tăng cường hợp tác hơn nữa giữa các công ty dầu để tận dụng được sức mạnh của nhau và tăng cường đầu tư khai thác các nguồn tài nguyên đầy thách thức về mặt địa chất.

Tại hội nghị trên Chủ tịch tập đoàn dầu mỏ quốc gia Malaysia (Petronas) Hassan Marican cũng nói rằng tập đoàn này sẽ tiếp tục phát triển các giếng dầu và khí đốt mới ở trong và ngoài nước nhằm đảm bảo khả năng có thể đáp ứng nhu cầu được lâu dài. Petronas sẽ tiếp tục hợp tác với các công ty dầu của Việt Nam, Indonesia và các nước khác trong ASEAN cũng như trên thế giới để có thể sản xuất được lâu dài. Hassan nói rằng cần phải tăng cường các hoạt động thăm dò dầu khí vì trong năm nay sản lượng dầu thô của Malaysia sẽ giảm xuống chỉ còn 550.000 thùng/ ngày so với 600.000/ thùng năm 2008 do trữ lượng tại các mỏ dầu ở ngoài khơi bán đảo Malaysia và bang Sarawak đang cạn dần. Tổng sản lượng dầu thô sẽ giảm xuống còn 650.000 tấn so với 700.000 tấn hồi năm ngoái. Theo Hassan hiện đã có những dấu hiệu của chu kỳ biến động mới sau khi giá dầu tăng trở lại 70 USD /thùng sau khi giảm mạnh từ giữa năm 2008. Để làm dịu bớt sự biến động này, các nhà sản xuất phải tiếp tục phát triển các giếng dầu và khí đốt./.

( Tinkinhte.com tổng hợp )

  • 10 siêu đại gia Nga trong danh sách đen sẽ bị Mỹ trừng phạt?
  • Liên minh 04 nước đối phó Trung Quốc ở châu Á-TBD?
  • Mỹ - Trung: Đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng 'rút kiếm'
  • Mỹ- Trung và quan hệ 'nước lớn kiểu mới'
  • Trung Quốc chịu “mở cửa” kiểm toán cho Mỹ
  • Thế giới thực sự có bao nhiêu tỷ phú?
  • Kinh tế thế giới bớt u ám nhờ Đông Á
  • Obama và trò chơi 'hai mặt của đồng tiền'
  • Tìm hiểu về chiến lược năng lượng của các quốc gia trên thế giới
  • Sông Mekong cạn kỷ lục: 60 triệu người bị ảnh hưởng
  • Triển vọng của các nền kinh tế mới nổi
  • Làm sao cứu sông Mê-kông?
  • Sản xuất toàn cầu tăng trưởng trở lại
  • Trung Đông, Nga với "cuộc chiến dầu" ở châu Á
  • Sự kiện và bình luận: Hiệp ước START mới: "Cài đặt lại" quan hệ giữa hai cựu thù
  • Thiên tai cực đoan xảy ra nhiều hơn do biến đổi khí hậu