- Hệ thống tài chính ngân hàng Hoa Kỳ lâm vào tình trạng khủng hoảng từ giữa năm 2007 và đỉnh điểm là tháng 9 năm 2008 sau đó lan sang các nước ở châu Âu, châu Á, đặc biệt là các nước có nền kinh tế lớn như: Anh, Đức, Nga, Nhật…kéo theo những hệ lụy lớn cho nền kinh tế thế giới.
Đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung, trong đó lĩnh vực nông, lâm, thủy sản nói riêng cũng chịu những tác động không nhỏ. Có thể nói, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính đến nông nghiệp Việt Nam thể hiện trên nhiều phương diện, rõ rệt nhất là ảnh hưởng đến xuất khẩu nông, lâm sản, kế đến là sản xuất, đầu tư và hệ lụy tất yếu là việc làm, thu nhập của người nông dân bị suy giảm.
Nhằm tìm các biện pháp vượt khó, đảm bảo phát triển nông nghiệp ổn định, ngày 25-11, Bộ Nông nghiệp&PTNT đã tổ chức Hội nghị “Đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nông nghiệp-nông thôn Việt Nam”.
Tác động trên nhiều phương diện
Những tác động đến xuất khẩu nông sản bắt đầu bộc lộ từ giữa tháng 9-2008 khiến hầu hết các mặt hàng đều có số lượng và kim ngạch xuất khẩu giảm so với các tháng trước đó. Báo cáo của Bộ Nông nghiệp&PTNT cho biết: Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 10-2008 đạt trên 1,3 tỷ USD, giảm 7,4% so với tháng 9 và ước tháng 11 đạt 1,2 tỷ USD, giảm 12% so với tháng 10. Như vậy, kim ngạch xuất khẩu của tháng 11 đã giảm gần 32% so với tháng 7 (tháng đạt kim ngạch xuất khẩu kỷ lục 1,75 tỷ USD).
Theo ông Trang Hiếu Dũng, Trung tâm tư vấn chính sách thì xuất khẩu bị ảnh hưởng bởi một số nguyên nhân là do sức cầu tại các thị trường tiêu thụ lớn nhất nông, lâm, thủy sản của Việt Nam bị suy giảm như: Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản; do khả năng thanh toán quốc tế bị hạn chế; do suy giảm đầu cơ của các quỹ. Mặc khác, trong thời gian qua, các nước xuất khẩu nông sản lớn trên thị trường thế giới có các mặt hàng nông sản mũi nhọn là gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, đều cạnh tranh trực tiếp với nước ta như: Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Braxin, Colombia…đều đã giảm giá mạnh đồng tiền so với đồng USD từ mức 13% đến 33%, trong khi đó con số này ở Việt Nam chỉ ở mức 5% đã đẩy xuất khẩu nông sản của nước ta vào thế khó cạnh tranh hơn.
Việc giảm giá một số vật tư nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp là một tín hiệu đáng mừng cho nông dân nhưng việc giảm giá quá nhanh làm cho một số doanh nghiệp đã nhập hoặc ký hợp đồng nhập một khối lượng lớn vật tư, phân bón trước đó bị lỗ nặng nề.
Khủng hoảng kinh tế cũng đã làm cho cầu giảm, thị trường tiêu thụ bị co hẹp, nông sản ứ đọng, giá hầu hết các nông sản (lúa gạo, cà phê, cao su) giảm không kích thích nông dân sản xuất. Hơn thế do hàng hóa không tiêu thụ được, doanh nghiệp và nông dân thiếu vốn sản xuất. Đặc biệt là nông dân các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, hiện vẫn còn tồn kho một lượng khá lớn lúa hàng hóa trong khi nhu cầu nhập khẩu của các khách hàng truyền thống như Philipine, Inđonesia bị giảm do các nước này tăng cường sản xuất nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Ngoài ra, các mặt hàng cao su, cà phê cũng trong tình trạng tương tự, hiện nay đang là vụ thu hoạch mủ cao su và cà phê, lượng hàng hóa nhiều trong khi nhu cầu tiêu thụ giảm nên giá trong nước cũng giảm mạnh. Nhiều hộ trồng cao su tiểu điền, nuôi cá tra, nuôi tôm đang rất khó khăn do không thể trả nợ ngân hàng, thiếu vốn để tiếp tục duy trì sản xuất.
Không những vậy, hiện nay trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản có khoảng 954 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (824 dự án nông, lâm nghiệp và 130 dự án thủy sản) với nguồn vốn đầu tư khoảng 4.654 triệu USD. Tuy nhiên việc đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp đang bị suy giảm do các nhà đầu tư nước ngoài thiếu hụt nguồn tài chính để thực hiện dự án. Tuy vốn cam kết lớn nhưng lượng vốn thực hiện giảm do ngân hàng thắt chặt cho vay và khó huy động được các nguồn vốn khác. Không chỉ đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mà đầu tư trong nước cũng sụt giảm do các nhà đầu tư có xu hướng rút vốn hoặc chờ đợi tình hình.
Các hiệp hội, tập đoàn đang "gồng mình chống đỡ"
Trong vài tháng qua, trùng lặp với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là sự sụt giảm mạnh mẽ của giá nông sản thế giới. Các ngành hàng của Việt Nam, từ gạo, cà phê, đến cao su, điều… đồng loạt rơi vào cảnh điêu đứng.
Ông Nguyễn Tôn Quyền, Chủ tịch Hiệp hộ Gỗ cho biết: Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã ảnh hưởng tới sản phẩm gỗ ở 4 lĩnh vực. Nếu như mọi năm, các đơn đặt hàng tính đến thời điểm tháng 9 hoặc tháng 10 đã đạt khoảng 70-80% cho năm sau, nhưng năm 2008 chưa đạt được 30%. Bên cạnh đó, do thị hiếu người tiêu dùng cũng đã bị giảm vì giá sản phẩm gỗ cao khiến nhiều làng nghề gặp khó khăn trong sản xuất. Ngoài ra, các mặt hàng nội thất xuất khẩu cũng đang bị giảm dần do thị trường lớn là Hoa Kỳ đang hạn chế nhập khẩu. Cũng do cuộc khủng hoảng tài chính khiến nhiều doanh nghiệp trong nước hiện nay không đầu tư hoặc đầu tư ít cho sản xuất do sản phẩm không bán được. Vì vậy, việc sản xuất của những doanh nghiệp này chủ yếu nhằm mục đích duy trì và bảo toàn vốn. Cũng theo ông Quyền thì hiện nay các doanh nghiệp gỗ đang phải xác định lại kế hoạch và định hướng sản xuất mặt hàng nào là chủ yếu để đưa ra tỷ lệ phát triển phù hợp. Đồng thời các doanh nghiệp phải liên kết lại để nhận đơn hàng mới nhằm tránh rủi ro.
Có lẽ mặt hàng chịu tác động mạnh chính là cao su khi theo dự báo của các chuyên gia kinh tế giá dầu thô có khả năng tiếp tục giảm sẽ kéo theo giá cao su xuống mức rất thấp. Theo Tập đoàn Cao su Việt Nam thì cuộc khủng hoảng tài chính thế giới có tác động rất lớn đối với ngành cao su. Mặc dù doanh thu năm nay tăng nhưng lợi nhuận lại giảm ảnh hưởng đến đời sống của công nhân. Để khắc phục tình trạng khủng hoảng, Tập đoàn đang hạn chế tối đa các mức đầu tư, tiết kiệm mọi chi phí để đảm bảo vốn.
Các giải pháp khắc phục
Theo Vụ Kế hoạch thì có 3 phương án để khắc phục cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu với các mức độ phục hồi nhanh trong quý I/2009. Tuy nhiên do mức tăng giá của các mặt hàng nông sản trong 10 tháng đầu năm 2008 là rất cao, đạt mức kỷ lục từ trước đến nay kéo theo giá trung bình cả năm cũng ở mức cao. Vì vậy, cho dù kinh tế thế giới và thương mại hàng nông sản có phục hồi nhanh cũng không kỳ vọng đạt được mức giá bình quân của năm 2008 ngay trong năm 2009, khối lượng hàng xuất khẩu cũng không có điều kiện tăng nhiều do đã qua một vụ sản xuất đông xuân. Theo đó, tổng kim ngạch xuất khẩu của phương án này là 15,3 tỷ USD, bằng 95% kim ngạch năm 2008, nhưng tăng 21% so với năm 2007. Đây là phương án lạc quan mặc dù nông sản xuất khẩu tuy không đạt được mức giá cao như 10 tháng đầu năm 2008 nhưng vẫn là mức giá cao, có lợi cho người sản xuất và doanh nghiệp trong bối cảnh giá vật tư và đầu vào đã xuống thấp.
Cũng theo Vụ Kế hoạch thì một trong những giải pháp để giữ ổn định sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi... là ngành lương thực, phải giữ vững sản lượng để đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ xuất khẩu 4,5 đến 5 triệu tấn gạo; ngành chăn nuôi, thủy sản cần tận dụng cơ hội giá nguyên liệu đầu vào giảm để thúc đẩy sản xuất, chiếm lĩnh thị trường trước khả năng thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam sẽ nhiều với giá rẻ. Công tác thông tin, dự báo thị trường phải được cải thiện mạnh mẽ để có thể tận dụng những cơ hội thuận lợi trên thị trường đảm bảo người nông dân có thể ứng phó linh hoạt hơn.
Ông Trang Hiếu Dũng, Trung tâm tư vấn chính sách cho rằng, thị trường trong nước vẫn chưa được chú ý đến khi các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của chúng ta như cà phê, hạt điều, chè đều hướng ngoại tới 80-90% sản lượng. Vì vậy cần phải chiếm lĩnh lại thị trường này bằng nâng cao chất lượng, công nghệ chế biến, tăng kích cầu nội địa, đồng thời xây dựng hàng rào kỹ thuật quản lý chất lượng nông sản nhập khẩu, cải thiện hệ thống lưu kho, phân phối nông sản trong nước. Về an sinh xã hội, giải pháp được đề xuất là tập trung hỗ trợ vốn cho các hộ nghèo, tăng dự trữ quốc gia để có thế cung cấp cho người dân phục hồi sản xuất khi bị thiên tai, dịch bệnh.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Phát biểu tại diễn đàn về Việt Nam trong khuôn khổ Tuần lễ Tài chính Euro lần thứ 10 đang diễn ra tại thành phố Frankfurt (Đức), chuyên gia kinh tế John Shrimpton thuộc Tập đoàn Dragon Capital Group (DCG) cho rằng kinh tế Việt Nam đang tốt đẹp trở lại sau giai đoạn phát triển nóng.
Năm 2009 đặt ra không ít thách thức đối với Việt Nam. Do đó, Chính phủ sẽ tiếp tục theo đuổi mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện an sinh xã hội.
Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: Năm 2008 xuất khẩu các loại nông, lâm, thuỷ sản tiếp tục được mở rộng và chiếm thị phần lớn trong khu vực và thế giới, giá trị kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 16,35 tỷ USD, tăng 29,7% so với năm trước. Sản lượng các cây trồng chủ lực cũng có xu hướng tăng như: cà phê đạt khoảng 980.000 tấn (ước vượt 8,8% so với kế hoạch), chè đạt gần 732.000 tấn (ước vượt kế hoạch 12,5%).
Có một công ty dệt may mang tên Ngày sinh của Bác ở Thủ đô Hà Nội. Nơi chúng tôi đến, thấp thoáng những nhà xưởng xen lẫn những hàng cây tươi mát, là những dãy công-ten-nơ đang chất hàng xuất khẩu phục vụ cho lễ Noen này tại các trung tâm thương mại quốc tế.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.