Với vị trí xếp hạng thứ 9 trên thế giới về xuất khẩu và được đánh giá là thị trường có tốc độ tăng trưởng cao, ngành dệt may Việt Nam nhiều khả năng sẽ lọt vào top 5 vào năm 2010. Tuy nhiên, ở thị trường nội địa, các doanh nghiệp dệt may trong nước lại dường như “đuối sức” trong việc xây dựng hình ảnh thương hiệu, cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Thời hạn ngày 1/1/2009 đã gần kề, vì vậy mà các doanh nghiệp không khỏi lo lắng khi ngành thời trang trong nước vốn đã gặp nhiều khó khăn tại thị trường nội địa nay lại càng khó hơn khi “cơn lốc” hàng hiệu tràn vào.
Song hành cùng thị trường 85 triệu dân, đây là một “mảnh đất” màu mỡ mà doanh nghiệp dệt may trong nước không thể bỏ qua. Chính vì thế mà nhiều doanh nghiệp trong nước đã đầu tư rất nhiều cho việc xây dựng thương hiệu, nâng cao chất lượng, đưa sản phẩm đến người tiêu dùng. Tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều cố gắng, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chỉ chiếm được khoảng 30% thị phần nội địa, phần còn lại thuộc về hàng ngoại nhập và các nhà may nhỏ trong nước. Hơn nữa, hệ thống phân phối của các doanh nghiệp này vẫn chưa đủ mạnh, lại đang chật vật đối phó với những khó khăn tồn tại dai dẳng suốt những năm qua như: yếu về thiết kế mẫu mốt, phụ thuộc quá nhiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu và chưa xây dựng được thương hiệu mạnh…
Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas) cho biết: Điểm mạnh của ngành may Việt Nam là trang thiết bị được đổi mới và hiện đại hóa tới 90%, lao động dồi dào, kỹ năng tay nghề tốt, có khả năng sản xuất được các loại sản phẩm phức tạp, chất lượng cao. Nhưng bên cạnh đó, ngành công nghiệp dệt và phụ trợ còn yếu, 70% nguyên phụ liệu phải nhập khẩu, thiết kế mẫu mốt chưa phát triển, giá cả kém cạnh tranh với hàng ngoại nhập.
Theo Chủ tịch Vitas Lê Quốc Ân, do phải cạnh tranh với hàng ngoại và mức thuế nhập khẩu dệt may đã giảm xuống còn 5 - 20%, trong khi chúng ta chưa nhận thức hết được những thách thức, áp lực cạnh tranh khi hội nhập, dẫn đến việc thiếu chuẩn bị, thiếu phương án khi sản xuất kinh doanh khó khăn. Đặc biệt từ 1/1/2009, khi Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các doanh nghiệp nước ngoài thì sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng lớn.
Hiểu một cách chính xác, Việt Nam chưa có ngành công nghiệp thời trang, chỉ có hàng dệt may hướng đến thời trang! Do vậy, thời trang Việt Nam chủ yếu cạnh tranh ở giá thấp, hàng đại trà, cổ điển; có ưu thế nhất định về thời trang công sở (cổ điển) và thời trang trẻ nhưng chưa có thương hiệu, định hướng thời trang, mang hình ảnh của nhà thiết kế. Cũng theo khảo sát, kênh phân phối có sức hút lớn nhất với người tiêu dùng hiện nay là các cửa hàng chuyên về sản phẩm thời trang và siêu thị. Và đây cũng chính là điểm yếu nhất của ngành thời trang Việt Nam khi mạng lưới bán hàng thiếu chuyên nghiệp, hoạt động tiếp thị quảng bá yếu, thiết kế lạc hậu. Nếu ngành dệt may trong nước không tích cực đầu tư làm chủ khâu nguyên liệu, thiết kế mẫu mã thì sẽ mất dần lợi thế cạnh tranh ngay trên “sân nhà”. * Từng bước khẳng định vị thế
Theo Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) Vũ Đức Giang, hiện Tập đoàn đã thành lập 4 cửa hàng lớn có tầm cỡ tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh không bán sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài mà chỉ bán các thương hiệu sản phẩm của Vinatex. Đây sẽ là bước ngoặt, bước phát triển đột phá đẩy thương hiệu của hàng dệt may Việt Nam lên tầm cao mới. Nếu chúng ta không nhạy bén thì khi các sản phẩm cùng loại của các nước tràn ngập vào thị trường nội địa sẽ chiếm lĩnh vị trí và sẽ có giá thấp hơn nếu chúng ta làm không tốt".
Ngoài vai trò của Hiệp hội, là cơ quan tập hợp các doanh nghiệp vào một khối, Vinatex cũng có chính sách mời gọi nhiều đơn vị bên ngoài liên kết với Tập đoàn. Điều này tác động tới chính sách chung và bản thân các doanh nghiệp cũng muốn những thương hiệu sản phẩm của họ có chỗ đứng trong hệ thống ngành thời trang Việt Nam. Nó sẽ làm thay đổi cơ bản phương pháp quản lý và phát triển ngành thời trang, quảng bá thương hiệu cũng như phát triển hệ thống bán lẻ, bán sỉ.
Nói cho cùng phương pháp quản lý, kinh doanh mới là yếu tố quyết định tới sự phát triển của toàn ngành. Do đó, các chuyên gia khuyến cáo ngành dệt may cần phải mở rộng thị trường nội địa, cân bằng hơn giữa thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu để đem lại cho người tiêu dùng Việt Nam những sản phẩm tốt nhất với giá cả cạnh tranh nhất. Thương hiệu và thời trang chính là mục tiêu dài hạn mà toàn ngành hướng đến, còn trước mắt ngành dệt may vẫn phải tập trung phát triển thị trường nội địa bằng việc giảm chi phí sản xuất và giá cả.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Tại Hội thảo “Kịch bản kinh tế Việt Nam 2009”, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển đã thử phác hoạ bức tranh thương mại của Việt Nam sẽ như thế nào trong những năm tới.
Trung tâm nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp TP.HCM vừa tổ chức tổ chức hội thảo "Thị trường bán lẻ, giờ G và giải pháp". Thời điểm để nước ta mở rộng cửa cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài chỉ được tính bằng ngày, trong khi các doanh nghiệp bán lẻ trong nước vẫn còn nhiều hạn chế về vốn,
Làm gì để “gỡ rối” cho hơn 350.000 doanh nghiệp này chính là chủ đề mà các nhà lãnh đạo và chuyên gia kinh tế trong nước ngồi lại thảo luận và đưa ra giải pháp vào sáng 18/12 tại Đà Nẵng.
Kể từ 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ mở cửa, song cho đến nay các nhà quản lý vẫn chưa xác định cụ thể những tiêu chí, khái niệm liên quan đến bán lẻ, doanh nghiệp (DN) cũng theo đó mà… lúng túng.
“Không có sự liên kết với nhau chính là một hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam, đã khiến cho các doanh nghiệp như những chiếc đũa đơn lẻ, mỏng manh, rất dễ bị bẻ gãy khi bước vào hội nhập”, chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan đã đưa ra nhìn nhận này trong cuộc hội thảo về môi trường thương mại Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO tại Hà Nội mới đây.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lần này có sức lan tỏa nhanh và mạnh, theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.Suy thoái kinh tế thế giới tác động đến Việt Nam đầu tiên là khu vực xuất khẩu và đầu tư, qua đó sẽ ảnh hưởng đến cân đối vĩ mô. Bài toán đặt ra cho Việt Nam lúc này là gì? Các chuyên gia kinh tế đã có những nhận định và đưa ra các giải pháp tại hội thảo kịch bản kinh tế Việt Nam năm 2009 diễn ra sáng 22-12, tại TP.HCM.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.