Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Việt Nam tụt 2 bậc trong xếp hạng cạnh tranh toàn cầu

Ngày 8/10, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã công bố kết quả xếp hạng khả năng cạnh tranh toàn cầu 2008. So với năm ngoái, Việt Nam tụt hai bậc từ 68 xuống 70.

Như thường lệ, bản báo cáo vẫn dựa trên những số liệu thống kê được công bố, và những khảo sát ý kiến chuyên gia. Trên cơ sở đó, WEF cho điểm và xếp hạng các nền kinh tế theo năng lực cạnh tranh.
Theo bản báo cáo, nước Mỹ vẫn đứng đầu nhờ nền kinh tế có năng suất rất cao, năng lực sáng tạo đứng đầu thế giới, và khả năng phân bổ nguồn lực vào những nơi hiệu quả nhất. Mặc dù báo cáo đã đề cập những yếu kém vĩ mô và bất ổn định của ngân hàng, thâm hụt ngân sách và nợ Chính phủ, nếu những biến động mới đây nhất của cuộc khủng hoảng được tính đến, chắc chắn vị trí của nước Mỹ sẽ không được như trong báo cáo.
Danh sách 10 nước đứng đầu về năng lực cạnh tranh hầu như không có gì thay đổi, với những tên quen thuộc hàng năm: Mỹ, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Thụy Điển, Singapore, Phần Lan, Đức, Hà Lan, Nhật. Chỉ có Canada mới gia nhập nhóm Top 10, còn Vương quốc Anh bị rơi khỏi nhóm này do những yếu kém của hệ thống ngân hàng, một hệ thống từ trước đến nay vẫn là niềm tự hào của nước này.
Singapore vượt từ hạng 7 lên hạng 5 để đổi chỗ cho Đức từ hạng 5 xuống hạng 7. Quốc gia đứng hạng cao nhất châu Á này được đánh giá có cơ sở hạ tầng và định chế tuyệt vời, đứng thứ hai thế giới về mức độ hiệu quả của 3 thị trường hàng hóa, lao động, và tài chính, để bảo đảm phân bổ nguồn lực vào nơi sử dụng hiệu quả nhất. Ba điểm yếu nhất của Singapore là qui mô thị trường nhỏ, chênh lệch cao giữa lãi suất đầu vào - đầu ra, và mức độ nợ của Chính phủ. 
Vị trí của Việt Nam
 
Xếp hạng năm 2008
Điểm số năm 2008
Xếp hạng năm 2007
Singapore
5
5.53
7
Nhật
9
5.38
8
Hồng Kông
11
5.33
12
Hàn Quốc
13
5.28
11
Đài Loan
17
5.22
14
Malaysia
21
5.04
21
Trung Quốc
30
4.70
34
Thái Lan
34
4.60
28
Brunei
39
4.54
n/a
Indonesia
55
4.25
54
Việt Nam
70
4.10
68
Philippines
71
4.09
71
Campuchia
109
3.53
110
 
Vị trí của Việt Nam trong 3 năm qua là hạng 64 (năm 2006), hạng 68 (năm 2007) và hạng 70 (năm 2008). Tuy nhiên, danh sách các nước năm nay có bổ sung thêm một số nước. WEF cũng chỉ ra, nếu không xét các nước mới bổ sung vào danh sách, thì Việt Nam chỉ tụt một bậc từ 68 xuống 69.
Trong số các nước Đông Á, Việt Nam chỉ đứng trên Philippines và Campuchia (Lào và Miến Điện chưa có tên trong danh sách xếp hạng.)
Việc xếp hạng được căn cứ theo chấm điểm 3 nhóm yếu tố: các yếu tố căn bản, các yếu tố nâng cao, và các yếu tố sáng tạo. Ba nhóm này bao gồm 12 “trụ cột” của năng lực cạnh tranh.
 
Các yếu tố đánh giá
Xếp hạng
Điểm số
Nhóm 1: các yếu tố căn bản
79
4.2
1.Các định chế
71
3.9
2. Cơ sở hạ tầng
93
2.9
3. Ổn định kinh tế vĩ mô
70
4.9
4. Y tế và giáo dục phổ thông
84
5.3
Nhóm 2: các yếu tổ cải thiện hiệu quả
73
3.9
5. Đào tạo và giáo dục đại học
98
3.4
6. Hiệu quả của thị trường hàng hoá
70
4.2
7. Hiệu quả của thị trường lao động
47
4.5
8. Trình độ của thị trường tài chính
80
4.1
9. Mức độ sẵn sàng cho công nghệ
79
3.1
10. Qui mô của thị trường
40
4.4
Nhóm 3: Các yếu tố sáng tạo
71
3.6
11. Trình độ của doanh nghiệp
84
3.8
12. Sáng tạo
57
3.3
 
Trong cuộc khảo sát ý kiến các chuyên gia về "vấn đề đang lo ngại nhất", ba yếu tố được coi là yếu kém nhất của Việt Nam gồm: lạm phát, cơ sở hạ tầng, và lao động được đào tạo.
Có 4 quốc gia đứng dưới Việt Nam trong năm 2007 nhưng đến năm 2008 đã vượt lên trên, đó là Botswana (từ hạng 76 lên 56), Braxin (từ 72 lên 64), Montenegro (từ 82 lên 65), và Rumani (từ 74 lên 68).
Trong khi đó, cũng có 2 quốc gia đứng trên Việt Nam trong năm 2007 nhưng đến năm nay đã tụt xuống dưới, đó là El Salvador (từ 67 xuống 79) và Ma rốc (từ 64 xuống 73).
Trong số 109 tiêu chí chi tiết để đánh giá cho điểm và xếp hạng, Việt Nam có 22 yếu tố xếp hạng 100 hoặc thấp hơn.
Chỉ tiêu yếu của Việt Nam
Xếp hạng
Bản chất của lợi thế cạnh tranh
126
Thuế suất bình quân
126
Mức độ bảo vệ nhà đầu tư
123
Chất lượng quản lý trường học
120
Chất lượng của hệ thống giáo dục
120
Số lượng thuê bao điện thoại di động
114
Mức độ vững mạnh của ngân hàng
113
Chất lượng hạ tầng cảng
112
Các rào cản thương mại
110
Trình độ của thị trường tài chính
106
Phổ cập giáo dục cấp 3
106
Chuẩn mực báo cáo và kiểm toán
106
Gánh nặng về quy chế nhà nước
105
Chất lượng cung cấp điện
104
Trở ngại cho sở hữu nước ngoài
104
Lạm phát
103
Chi phí sa thải lao động
103
Chất lượng đường giao thông
102
Mức độ linh hoạt về lương
101
Phổ cập giáo dục cấp 2
100
Bệnh lao phổi
100
Chi tiêu cho giáo dục
100
 
Tuy nhiên, cũng trong 109 tiêu chí đó thì cũng có 12 điểm Việt Nam đứng hạng khá cao, trong khoảng 40 hoặc cao hơn.
Chỉ tiêu mạnh của Việt Nam
Xếp hạng
Huy động vốn trong nước từ cổ phiếu
5
Tham gia của lao động nữ
10
Hiệu quả giữa lương và năng suất
17
Chính phủ mua thiết bị công nghệ cao
21
Phát triển theo cụm doanh nghiệp
25
Tỉ lệ tiết kiệm trong nước
28
Thị trường nước ngoài
29
Điện thoại cố định
37
Chênh lệch lãi suất gửi - vay
39
Chi phí của chính sách nông nghiệp
39
Năng lực sáng tạo
41
Qui mô thị trường trong nước
42
 
WEF phân các nền kinh tế theo 3 nhóm. Nhóm 1 có năng lực cạnh tranh dựa vào các yếu tố tự nhiên (tài nguyên, vị trí, sức lao động…); nhóm 2 cạnh tranh dựa trên hiệu quả của nền kinh tế; nhóm 3 dựa trên năng lực sáng tạo.
Trên đồ thị dạng “mạng nhện” của Việt Nam, báo cáo đánh giá Việt Nam đã vượt ra khỏi vòng màu đen của nhóm 1 và đang ở giai đoạn chuyển tiếp sang nhóm 2. Ba điểm mạnh của Việt Nam là ổn định vĩ mô, y tế - giáo dục tiểu học, và qui mô của thị trường. Còn ba “vùng lõm” của Việt Nam vẫn là cơ sở hạ tầng, đào tạo và giáo dục đại học, và mức độ sẵn sàng cho công nghệ.
Báo cáo của WEF nhằm cung cấp bức tranh vừa tổng thể vừa chi tiết về môi trường kinh tế của các quốc gia, cũng như khả năng của mỗi quốc gia đạt được sự bền vững trong tăng trưởng và phát triển.
Các đối tác trong nước tham gia cùng WEF thực hiện bản báo cáo năm nay là Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương và Viện Kinh tế TP. HCM.
(Vietnamnet)

  • Đề xuất 3 phương án tăng trưởng GDP năm 2009
  • Tháng 9/2008 giá trị sản xuất công nghiệp cả nước đạt gần 56.000 tỷ đồng
  • Tổng quan tình hình kinh tế-xã hội trong nước 9 tháng 2008 và giải pháp những tháng cuối năm
  • 7 tháng, doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp 5.721 tỷ đồng vào ngân sách
  • Bán lẻ hàng hoá và dịch vụ phục vụ tiêu dùng của cả nước 9 tháng năm 2008
  • 10 điểm chính kinh tế 9 tháng năm 2008
  • Xếp hạng tham nhũng thế giới năm 2008
  • GDP cả nước 9 tháng đầu năm tăng 6,25%
 tinkinhte.com
 tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com
 tin kinh te - tinkinhte.com

  • Giáo sư Trần Văn Thọ: Một tiếp cận khác về chiến lược phát triển 2011-2020
  • Tái cấu trúc nền kinh tế: Đơn đã kê, bệnh nhân có chịu uống thuốc?
  • Thế giới nhìn nhận, đánh giá về triển vọng môi trường kinh doanh của Việt Nam
  • Quan điểm chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam đến 2020
  • Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015: Tập trung huy động vốn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
  • Quy hoạch chung Thủ đô: 90 tỷ USD cho hạ tầng có khả thi?
  • Phát triển kinh tế biển đảo Việt Nam: Thực trạng và triển vọng
  • Ts.Trần Công Hòa: Kinh tế Việt Nam 2010 - Một số khuyến nghị
  • Nóng hầm hập: Nhập siêu - Bội chi ngân sách - Chính sách tiền tệ
  • Bàn về cải cách cơ cấu và tái cấu trúc nền kinh tế
  • Việt Nam 2009: Các chỉ số kinh tế và bốn hạn chế từ góc nhìn thống kê
  • Kinh tế Việt Nam 2009 và một vài suy nghĩ về nhận thức luận chuyển đổi