Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Chiến lược của các cường quốc thời hậu khủng hoảng

 Đứng trước sự tác động của khủng hoảng tài chính thế giới, và nhận thức được thách thức toàn cầu đã lộ rõ sự thay đổi cục diện thế giới, các cường quốc lần lượt “cải cách”, tăng cường lên kế hoạch chiến lược an ninh quốc gia, chớp “cơ hội”, giành thế “chủ động” trong trò chơi quyền lực mới, từ đó chiếm ưu thế về chiến lược trong “thời hậu khủng hoảng tài chính”.

Tổng thống Obama muốn “cải cách” để thoát khỏi khó khăn


Tổng thống Mỹ Barack Obama vào ngày 23/9/2009 đã đưa ra “4 nhân tố lớn” nhằm bảo vệ an ninh quốc gia. Một là, ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân, nỗ lực cho một “thế giới không vũ khí hạt nhân”. Mỹ sẽ tìm cách cùng với Nga đạt được thỏa thuận mới về việc cắt giảm tối đa vũ khí chiến lược tấn công, tranh thủ phê chuẩn “Điều ước nghiêm cấm thử nghiệm hạt nhân toàn diện”, đẩy nhanh việc hoàn thành báo cáo “Nghiên cứu tình hình hạt nhân”, kêu gọi các nước nhanh chóng đàm phán về “Điều ước cấm sản xuất nguyên liệu có thể dùng để chế tạo vũ khí hạt nhân”, đồng thời tổ chức “Hội nghị an ninh hạt nhân” vào tháng 4/2010, vừa mềm vừa rắn trong vấn đề hạt nhân Triều Tiên và Iran, mở rộng mức độ ngoại giao; Hai là tiếp tục “đàn áp” các tổ chức Al Qaeda; Ba là, tích cực đối phó với mối đe dọa của biến đổi khí hậu, đầu tư vào nguồn năng lượng sạch và thúc đẩy giảm đáng kể lượng phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; Bốn là thúc đẩy phục hồi kinh tế thế giới, Mỹ sẽ cùng với các nền kinh tế chủ yếu trên thế giới mở ra con đường tăng trưởng cân bằng và bền vững.

Mỹ còn liên tiếp công bố “Đánh giá chính sách không gian mạng”, “Chiến lược tình báo quốc gia”, “Đánh giá quốc phòng trong 4 năm”…, gấp rút tạo “quan hệ chiến lược mới”. “Đánh giá chính sách không gian mạng” nhằm tạo “không gian mạng” cho thông tin số liệu internet toàn cầu trên cơ sở truyền thông. Rủi ro an ninh mạng đã trở thành thách thức kinh tế nghiêm trọng nhất trong thế kỷ 21 và cũng là thách thức của an ninh quốc gia, Mỹ cần phải hoạch định chiến lược an ninh mạng; “Chiến lược tình báo quốc gia” chia “mối đe dọa” của Mỹ thành 3 loại, lần lượt là quốc gia chủ quyền (thứ tự là Iran, Bắc Triều Tiên, Trung Quốc, Nga), nhóm hành vi phi quốc gia (chủ yếu là các tổ chức khủng bố quốc tế), mối đe dọa đa quốc gia (khủng hoảng tài chính toàn cầu gây biến động chính trị, “quốc gia thất bại” và “khu vực mất kiểm soát”, biến đối khí hậu và cạnh tranh năng lượng, cách mạng thông tin, dịch bệnh); “Đánh giá quốc phòng trong 4 năm” đề xuất nhanh chóng “chuyển đổi mô hình” quân đội Mỹ, tăng cường cân bằng, chú ý chống khủng bổ, phòng chống và đối phó trước sự trỗi dậy của các cường quốc, bảo đảm chủ quyền của Mỹ tại các lĩnh vực chung toàn cầu như hải dương, vũ trụ, không gian mạng…

Đồng thời, chính quyền Obama cần phải có thái độ linh hoạt để ứng phó với nhiều tình huống khẩn cấp: Cải thiện mối quan hệ với thế giới Hồi Giáo, tuyên bố đặt “thời gian biểu” cho việc rút quân khỏi Iraq, chuyển trọng tâm sang “truy quét các phần tử nổi dậy” tại Afghanistan và Pakistan; Điểu chỉnh kế hoạch triển khai hệ thống chống tên lửa tại Đông Âu, nhằm xoa dịu mâu thuẫn với Nga, tìm sự ủng hộ từ Nga trong vấn đề Iran; Đẩy nhanh việc phát triển hợp tác chiến lược Mỹ - Ấn, nhằm thực hiện nhiều mục tiêu chiến lược quan trọng.

Nga dốc sức kéo dài tiến trình trỗi dậy của các cường quốc

Nga đã tung ra “Chiến lược an ninh quốc trước năm 2020” và “Học thuyết quân sự mới”, “Chiến lược an ninh quốc gia” cho rằng, Nga đang đứng trước 5 mối đe dọa lớn: Sự tranh giành năng lượng quốc tế leo thang, các cuộc chạy đua xoay quanh Trung Đông, Bắc Cực, Biển Caspi, Trung Á ngày càng khốc liệt, nên “việc sử dụng vũ lực khó mà từ bỏ”; Phổ biến vũ khí hạt nhân; Mỹ mưu cầu “ưu thế quân sự tuyệt đối”; Mỹ đang triển khai hệ thống chống tên lửa tại châu Âu; NATO với chiến dịch hướng Đông” và “toàn cầu hóa”.

Chính sách an ninh Nga sẽ nhấn mạnh hai điểm chính: Thứ nhất, lấy Tổ chức Hiệp ước an ninh tập thể (CSTO) và Cộng đồng Âu – Á làm chỗ dựa; Hai là “bắt cá hai tay” với Mỹ, triển khải nhiều sự hợp tác trên nhiều lợi ích chung, đồng thời bảo đảm “thế lực cân bằng hạt nhân” với Mỹ, hình thành một sự đe dọa bằng vũ lực với Mỹ.

Khủng hoảng tài chính đã khiến nền kinh tế Nga, một nước lệ thuộc cao độ vào việc xuất khẩu nguyên vật liệu chịu tổn thất nghiêm trọng, trong báo cáo “Tình hình nước Nga” mà Tổng thống Nga Dmitry Medvedev công bố vào cuối năm 2009, đã đưa ra “chiến lược tăng cường nước Nga”: Một là, “đổi mới nền kinh tế”, xây dựng khuôn khổ kinh tế mới trên cơ sở sáng tạo công nghệ, từng bước thoát khỏi mô hình phát triển dựa vào xuất khẩu năng lượng; Hai là “tăng cường quân sự”, dự kiến sẽ hoàn thành công cuộc cải cách quân sự trong năm 2010, thiết lập một quân đội hiện đại hóa và tin tức hóa, phối hợp với cộng đồng quốc tế đối phó với vấn đề hạt nhân Iran, Triều Tiên, Afghanistan và hòa bình Trung Đông.

Anh chống khủng bố và an ninh mạng


Trước tiên là tăng cường chống khủng bố. Anh tung ra một văn kiện chống khủng bố mới, tập trung phòng ngừa các tổ chức khủng bố phát triển thêm thành viên mới ngay tại trong nước, triển khai “đào tạo chống khủng bố” trên phạm vi toàn cầu, phát động chống khủng bố toàn dân. Thủ tướng Anh Gordon Brown theo sát TT Mỹ Obama, vào tháng 5 năm 2009 tuyên bố, “Chiến lược mới tại Afghanistan và Pakistan”, sẽ “cùng  đồng thời suy xét” Afghanistan và Pakistan, tập trung vào tổ chức “Al Qaeda” và “Taliban”.

Tiếp theo là nâng cao an ninh mạng. Vào tháng 6/2009, nước Anh đã công bố “Chiến lược an ninh mạng”, quyết định đưa an ninh mạng vào khuôn khổ chiến lược an ninh quốc gia, thành lập “Trung tâm hành động an ninh mạng” và “Văn phòng an ninh mạng”, tăng cường giám sát mạng và điều phối các cơ quan.

“Ý tưởng an ninh” mới của Tổng thống Sarkozy

Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy vào tháng 3/2009 đã công bố “Ý tưởng an ninh” mới tại Học viện quân sự Paris: Thứ nhất, an ninh của trong và ngoài nước là không thể tách rời, Pháp đang đứng trước mối đe dọa toàn cầu hóa, bao gồm cả “sự thay đổi bất ngờ về chiến lược” do khủng hoảng tài chính gây ra; Hai là đối phó với khủng hoảng toàn cầu bằng cách “tiếp cận theo ba hướng”, bao gồm cùng với "đại gia đình" phương Tây triển khai “ngoại giao mạnh mẽ”, xây dựng “nền quốc phòng lớn mạnh” và tăng cường dự cảnh báo tình báo, phòng vệ mạng và nâng cao khả năng quân sự, tăng cường xây dựng quốc phòng Châu Âu và tiến hành cho Pháp quay trở lại NATO.

Pháp còn vạch kế hoạch “50 năm tương lai” và “Sách trắng an ninh quốc gia”, chủ yếu coi trọng “trọng tâm chiến lược toàn cầu đang chuyển sang châu Á”, chủ trương sáp nhập Ủy ban quốc phòng với Ủy ban an ninh nội địa”, thiết lập “Ủy ban quốc phòng và an ninh quốc gia”, tăng cường “khả năng đối kháng” của cộng đồng quốc tế và các cơ quan nhà nước khi gặp tình huống bất ngờ, tăng cường năng lực “quản lý khủng hoảng” của chính phủ.

Nhật Bản thử cải cách “quan điểm chiến lược”

Đảng Dân chủ của Nhật Bản sau khi lên cầm quyền vào tháng 9/2009, dự định “bắt đầu lại”, điểu chỉnh mạnh mẽ chính sách bảo an ngoại giao của cựu chính phủ LDP, không chỉ xa rời với lập trường của Mỹ chuyển sang coi trọng châu Á và Trung Quốc, mà còn sẵn sàng đánh giá lại tình hình an ninh của Nhật Bản, sẽ hoãn công bố “Đại cương kế hoạch phòng vệ” mới cho 5 năm tới và “Kế hoạch trang bị sức mạnh quốc phòng trung hạn” mà trước đó Nhật Bản dự định công bố vào cuối năm 2009.

Tuy nhiên, việc điều chỉnh chiến lược an ninh của Đảng Dân chủ lại bị hạn chế trong và ngoài nước, trong nước có phe đối lập - Đảng LDP và phe cánh hữu cản trở, bên ngoài có “sự mỉa mai” của Mỹ, thêm vào đó, Nhật Bản vốn có mâu thuẫn với các nước láng giềng, vì thế việc điều chỉnh chiến lược của quốc gia này ắt phải “sai hẹn”. “Kim chỉ nam cơ bản” cho dự toán quốc phòng của Nhật Bản năm 2010 cho biết, sự hiện đại hóa và các hoạt động quân sự của các nước xung quanh khá sôi nổi, vấn đề hạt nhân và tên lửa Triều Tiên càng nghiêm trọng hơn, “cần phải sâu sắc hóa sự hợp tác an ninh Nhật – Mỹ”.

Ấn Độ nắm thời cơ để mở rộng phạm vi thế lực

Trước hết, nắm lấy cơ hội “chống khủng bố” để giành vị trí chủ đạo tại Nam Á. Từ sau sự kiện khủng bố tại Mumbai vào ngày 26/11/2008, Ấn Độ luôn gây sức ép cho Pakistan và lợi dụng Pakistan đang rơi vào bạo loạn, tăng cường tìm cách giành “quyền chủ đạo” tại Nam Á.

Thứ hai, đi sâu vào hợp tác chiến lược với Mỹ, Nga, Nhật Bản, tăng cường phòng vệ trước Trung Quốc. Tháng 7/2009, Mỹ - Ấn công bố “Tuyên bố hợp tác quốc phòng và hạt nhân”, ký kết “Thỏa thuận giám sát khai thác chung”, mở cánh cửa lớn cho Mỹ nhập khẩu vũ khí mà Ấn Độ tiêu thụ. Vào tháng 12/2009, Ấn Độ và Nga cũng ký kết “Thỏa thuận hợp tác quốc phòng 10 năm”, cùng phát triển chiến đấu cơ “thế hệ 5”, xúc tiến hợp tác năng lượng hạt nhân. Trong khi cải thiện quan hệ với các cường quốc, Ấn Độ lại ngày càng cạnh tranh và đối kháng mạnh mẽ với Trung Quốc.

Cuối cùng, Ấn Độ nỗ lực phát triển thực lực quân sự trên biển, vũ trụ, tên lửa tầm trung và xa. Chẳng hạn như triển khai tàu ngầm hạt nhân đầu tiên, đẩy nhanh việc thực hiện chương trình “3 tàu sân bay lớn”, cật lực “hùm cứ” Ấn Độ Dương, nhanh chóng nghiên cứu tên lửa tầm xa và hệ thống chống tên lửa.

Những dự báo lạc quan về kinh tế thế giới
(Theo
Linh Đức // Tin Chính phủ)

Theo các số liệu mới nhất, các nhà máy trên khắp thế giới từ Mỹ đến châu Âu đang sản xuất với tốc độ kỷ lục khiến nền kinh tế thế giới phục hồi nhanh hơn mọi dự báo chỉ cách đây vài tháng.

Nhiều cơ quan phân tích kinh tế thế giới đã đưa ra các dự báo lạc quan về thời kỳ tăng tốc của tiến trình phục hồi của nền kinh tế thế giới.

Tại Mỹ, Viện Quản lý nguồn cung (ISM) cho biết sản lượng của các nhà máy tăng 8 tháng liên tiếp và đã đạt tới nhịp độ tăng nhanh nhất kể từ tháng 7/2004 với số đơn đặt hàng tăng 60% trong tháng 3/2010.

Công nghiệp chế tạo chiếm 22% nền kinh tế Mỹ. Các công ty Mỹ sở hữu nguồn vốn dồi dào hơn 1.000 tỷ USD sẽ tiếp tục đẩy sản lượng của các nhà máy tăng liên tục trong nhiều tháng nữa, tạo thêm 45.000 việc làm kể từ đầu năm 2010 và mở ra những xu hướng mới cho công nghiệp chế tạo. Chỉ số sức mua tăng từ 56,5 tháng 1 lên 59,6 tháng 3, vượt quá mọi dự báo của các nhà kinh tế.

Theo số liệu của Tập đoàn Tài chính Mỹ JPMorgan Chase, tăng trưởng của công nghiệp chế tạo toàn cầu tăng mạnh kể từ tháng 3/2010, đặc biệt nhanh ở Mỹ, Ấn Độ và Trung Quốc. Sản lượng công nghiệp của các nhà máy ở Anh tăng với tốc độ nhanh nhất trong 16 năm qua và ở  các nước thuộc khu vực đồng Euro tăng nhanh nhất trong 5 năm qua, đặc biệt ở Đức, Pháp, Hà Lan, Áo và Italita. Số đơn đặt hàng xuất khẩu trên toàn cầu tăng cao nhất kể từ tháng 1/1998.

Công nghiệp ô tô thế giới cũng phục hồi nhanh với tất cả các hãng chế tạo ô tô lớn trên thế giới đều tăng doanh thu kể từ tháng 3/2010 so với cùng kỳ năm trước, từ mức thấp nhất 21% của hãng General Motors của Mỹ đến mức cao nhất là 43% của hãng Nissan Motor của Nhật Bản. Hãng Ford Motor của Mỹ cũng tăng doanh thu 40% .

Hãng tin tài chính Bloomberg của Mỹ nhận định những thành quả trong công nghiệp toàn cầu này sẽ báo trước sự phát triển tăng vọt trong buôn bán toàn cầu.

Bộ phận phân tích thông tin kinh tế (EIU) thuộc tạp chí The Economist của Anh, ngày 20/4, cho rằng khu vực châu Á đã tăng trưởng tương đối mạnh trong năm 2009 và tốc độ tăng trưởng trong năm 2010 sẽ cao hơn do kinh tế toàn cầu phục hồi, tác dụng của chính sách kích thích và do cơ sở so sánh thấp.

Sự phục hồi kinh tế của khu vực này trong năm 2010 sẽ rất mạnh mẽ. Triển vọng đó đang được khẳng định từ các số liệu của quý I với việc Singapore tăng trưởng 13,1%, Trung Quốc tăng trưởng 11,9%. IEU dự báo tăng trưởng trung bình cả năm của châu Á sẽ là 7,1%.

Tuy nhiên, điều này cũng không có nghĩa sự phục hồi sẽ dễ dàng. Các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với thách thức lớn, đó là làm thế nào để đảm bảo được sự phát triển mạnh và bền vững trong điều kiện nhu cầu toàn cầu vẫn yếu và giá cả hàng hoá tiêu dùng tăng lên. Điều kiện hiện nay khác hoàn toàn với tình hình sau các cuộc suy thoái 1998 và 2001 khi tăng trưởng xuất khẩu mạnh hỗ trợ cho sự phục hồi của khu vực.

Thách thức ngay trước mắt là việc xác định thời điểm thu hồi các chính sách kích thích tiền tệ và tài chính đã thức hiện trong năm qua.

Đa số các nước đã bắt đầu quá trình thắt chặt tiền tệ. Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Singapore và Việt Nam gần đây đã tăng lãi suất, tăng tỷ lệ dự trữ hay các yêu cầu khác. Tiến trình thắt chặt tiền tệ sẽ còn kéo dài trong một vài tháng và quý tới khi sự phục hồi tiếp tục và áp lực lạm phát tăng lên.

Tuy nhiên, các cơ quan dự báo kinh tế thế giới cũng cảnh báo những nhân tố hiểm hoạ tiềm ẩn đối với nền kinh tế toàn cầu như lạm phát, thị trường bất động sản tiếp tục suy yếu, thất nghiệp và các quan hệ căng thẳng trong buôn bán.

Giá dầu tăng 75% trong năm 2009 đã bắt đầu gây lo ngại đối với các nhà hoạch định chính sách kinh tế quốc gia và quốc tế. Một cuộc suy thoái kép của Mỹ có thể ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng của châu Á. Các vấn đề tài chính của các nước phát triển, đặc biệt là châu Âu, vẫn là mối lo ngại lớn.

Dù lạm phát vẫn ở mức thấp ở nhiều nước, nhưng việc giá cả hàng hoá, lương thực tăng cũng dẫn đến nguy cơ lạm phát tăng mạnh và có thể làm các ngân hàng trung ương thắt chặt chính sách tiền tệ quá nhanh, ảnh hưởng đến quá trình phục hồi./.



Những dấu hỏi cho tiến trình phục hồi kinh tế ở châu Á
(Theo Hà Việt // Diễn đàn doanh nghiệp)


Năm 2010 sẽ là năm cột mốc cho tăng trưởng kinh tế châu Á

Trong suốt thập kỷ qua, nhiều nhà phân tích đã dự báo về sự trỗi dậy của châu Á do quá trình sa sút của Mỹ và châu Âu. Nhiều nhận định cho rằng, năm nay châu Á sẽ trở thành động lực lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, cũng không ít dấu hỏi cho những nguy cơ với tiến trình phục hồi kinh tế khu vực.

2010 - cột mốc cho tăng trưởng kinh tế châu Á?

Đây là lời nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế tiếng tăm, họ cho rằng năm 2010 sẽ là năm cột mốc cho tăng trưởng kinh tế châu Á, đánh dấu sự thay đổi cơ cấu lớn nhất của kinh tế toàn cầu ngày nay.

Theo Dave Carbon – phụ trách nghiên cứu tiền tệ và kinh tế của ngân hàng hàng đầu Xinhgapo DBS, năm nay, châu Á sẽ lần đầu tiên tạo ra nhiều mức cầu hơn Mỹ và trở thành động lực lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Không kể Nhật Bản, mức cầu đã tăng nhanh ở châu Á trong 20 năm qua, đáng kể là đạt mức bình quân khoảng 7% đối với 10 nền kinh tế hàng đầu khu vực là Trung Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan và các thành viên ASEAN là Inđônêxia, Malaixia, Philíppin, Xinhgapo, Thái Lan. Tính đến lúc này, quy mô tổng cộng của các nền kinh tế trên vẫn còn tương đối nhỏ. Tuy nhiên, quá trình tích lũy của 2 thập kỷ tăng trưởng nhanh chóng đã giúp châu Á nay có quy mô bằng khoảng 44% kinh tế Mỹ.

Các số liệu GDP gần đây cho thấy,  nền kinh tế châu Á đang dẫn đầu sự phục hồi của nền kinh tế thế giới. Ngày 22/2, Thái Lan thông báo trong quý IV/2009, kinh tế nước này đã tăng trưởng mạnh mẽ 5,8% so với cùng kì năm trước. Ngày 23, Đài Loan thông báo tăng trưởng quý IV là 9,2%. Tiếp đó, những số liệu từ Hồng Kông, Malaixia, Nhật Bản… cho thấy tất các nền kinh tế này đã trở lại tăng trưởng sau khi liên tục suy giảm kể từ cuối năm 2008.

Trong khi đó, nhận định của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho rằng, năm nay, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ dẫn đầu với tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Các nền kinh tế mới được công nghiệp hóa như Hồng Kông, Xinhgapo, Hàn Quốc và Đài Loan dự kiến cũng sẽ đạt mức tăng trưởng dương. Tình hình ở Inđônêxia và Việt Nam hiện cũng khá tốt, trong khi tình hình kinh tế Thái Lan sẽ không sa sút vì không có dấu hiệu cho thấy giới đầu tư nước ngoài sẽ rút khỏi vương quốc này trong bối cảnh xảy ra các vụ hỗn loạn chính trị mới đây.

Có bền vững?

Bộ phận phân tích thông tin kinh tế thuộc tạp chí The Economist cuối tháng 2 cho rằng, châu Á dường như đang dẫn đầu sự phục hồi của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, là sai lầm nếu cho rằng kinh tế khu vực này đang phục hồi nhanh và vững chắc. Hiện vẫn chưa rõ là trong sự tăng trưởng đó thì phần nào là dựa vào các biện pháp kích thích có tính tạm thời và phần nào thì dựa vào nhu cầu nội tại của nền kinh tế.

Dường như châu Á đang dẫn dắt sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu trong khi các nước phát triển vẫn còn khó khăn. Dự báo tăng trưởng GDP của châu Á và Australia (không bao gồm Nhật Bản) trong năm 2010 sẽ là 6,8% và năm 2011 là 6,3%. Tuy nhiên, vẫn có những lo ngại về tính bền vững của sự phục hồi của châu Á, chủ yếu do 3 yếu tố quan trọng sau:

Thứ nhất, số liệu tăng trưởng ấn tượng của một số nước châu Á là nhờ cơ sở so sánh thấp. Cuối năm 2008, cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh đến các nền kinh tế châu Á phụ thuộc vào xuất khẩu, do đó, không có gì là ngạc nhiên khi các số liệu so sánh với cùng kỳ năm trước của quý IV/2009 trở nên sáng sủa hơn.

Thứ hai, sự phục hồi của châu Á một phần là nhự tác dụng của việc thay đổi hàng tồn trữ. Cuối năm 2008, các công ty đã giảm mạnh hàng tồn trữ, làm trầm trọng thêm ảnh hưởng của cuộc suy thoái toàn cầu. Hiện nay, quy trình ngược lại đang diễn ra.

Yếu tố thứ ba giúp châu Á phục hồi đó là các gói kích thích tài chính lớn và việc nới lỏng các điều kiện tài chính. Nỗ lực kích thích của châu Á là quyết liệt hơn so với của các nền kinh tế phát triển. Kích thích của Trung Quốc là lớn nhất với kích thích tài chính lên đến 8% GDP và sự hỗ trợ tài chính mạnh mẽ thông qua các ngân hàng. Nhiều nước châu Á khác cũng đưa rá các chương trình chi tiêu trị giá ít nhất là 5% GDP. Nhờ đó nhu cầu nội địa đã tăng lên.  

Nguy cơ nào?

Đã xuất hiện nhiều lời cảnh báo cho rằng, sự hồi phục ấn tượng của châu Á không thể duy trì vô hạn định. Theo một số chuyên gia, mức tăng trưởng kinh tế khu vực sẽ chậm dần khi nhu cầu chững lại, mức cung bị ảnh hưởng bởi tình trạng thừa công suất bắt đầu thể hiện hậu quả và các ngân hàng trung ương trong khu vực nhiều khả năng thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát. Mặc dù giá bất động sản đã được đẩy lên tới mức "bong bóng" tại một số thị trường ở châu Á - đặc biệt là ở Trung Quốc, Hồng Kông và Xinhgapo, song nhiều nhà kinh tế cho rằng các chính phủ và ngân hàng trung ương đã nhận thức rõ nguy cơ lạm phát của việc duy trì chính sách tiền tệ lỏng lẻo quá mức, vốn được thực hiện để chống chọi với cuộc khủng hoảng toàn cầu, và hầu hết các chính sách này sẽ bắt đầu được siết chặt vào nửa cuối năm nay, khi sự phục hồi trở nên vững chắc.

Trong khi đó, khi nền kinh tế châu Á tăng trưởng nhanh trở lại, sức ép về giá cả cũng tăng theo - điều mà một số người cho rằng có thể phá hoại thành quả của các biện pháp kích thích kinh tế của chính phủ trong thời gian trung hạn và nếu bị xử lý kém, sẽ gây ra những rắc rối mới về kinh tế. Lương thực và năng lượng là hai thành tố lớn trong chỉ số giá tiêu dùng ở châu Á và là hai lĩnh vực mà sức ép mới về giá cả sẽ được cảm nhận rõ nhất.

Giá dầu sẽ tăng cao hơn do sự phục hồi kinh tế của các nước nhập khẩu dầu ở châu Á làm tăng mạnh nhu cầu trên toàn cầu. Điều mà một số nhà kinh tế lo ngại là không giống năm 2008, giá hàng hóa và lạm phát cơ bản đang đẩy giá cả leo thang. Báo cáo của ngân hàng đa quốc gia HSBC, lạm phát cơ bản không còn ở mức "khả quan" như trước đây, đồng thời chỉ ra "những thay đổi về cơ cấu" lạm phát tại khu vực bị tác động bởi tình trạng thiếu lao động và các chính sách tiền lương linh hoạt.

Chưa hết, trong một nhận định đưa ra nhân chuyến thăm Mỹ hồi cuối tháng trước, Tổng Giám đốc điều hành ADB Rajat Nag cho rằng, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu có thể được coi là lời "cảnh tỉnh" buộc châu Á phải cam kết thực hiện các cuộc cải cách, trong đó có việc mở rộng mạng lưới an sinh xã hội. Mặc dù khu vực này đang phục hồi với tốc độ nhanh hơn dự kiến, song khoảng 57 triệu người vẫn đang phải sống trong cảnh nghèo đói, những người lẽ ra sẽ phải thoát nghèo trong năm 2010.

Nên và không nên?

Tổng Giám đốc ADB Rajat Nag cho rằng, các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á nên tiến tới giảm bớt sự phụ thuộc nặng nề vào hoạt động xuất khẩu sang Mỹ, châu Âu và Nhật Bản, và thay vào đó tìm cách thúc đẩy tiêu dùng nội địa. “Bản chất của việc tái cân bằng tăng trưởng ở châu Á chính là biến châu Á thành một khu vực tiêu thụ, chứ không phải là một khu vực sản xuất”, ông khẳng định.

Tháng tư này, ADB dự kiến sẽ nâng dự báo tăng trưởng của năm 2010. Tháng 12/2009, ADB dự đoán khu vực này, trừ Nhật Bản, sẽ tăng trưởng 6,6% trong năm nay. Tuy nhiên, ông Nag cho rằng nên thận trọng trong việc bãi bỏ các biện pháp kích thích kinh tế, mà nhiều nền kinh tế đã áp dụng sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra năm 2008 do sự sụp đổ của thị trường nhà đất Mỹ. "Sự hồi phục diễn ra không mạnh, mà thậm chí còn rất mong manh, vì vậy chúng ta nên duy trì các biện pháp kích thích tài chính thêm một thời gian nữa".

Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF) cũng không ủng hộ việc châu Á sớm kết thúc các biện pháp kích thích tài chính. Theo IMF, do sự phục hồi vẫn rất mong manh, nên các chính sách tài chính cần phải duy trì sự ủng hộ đối với hoạt động kinh tế trong thời gian gần. Gói kích thích tài chính dự kiến cho năm 2010 nên được thực hiện hoàn chỉnh. Việc các ngân hàng trung ương châu Á hành động đúng lúc và hiệu quả sẽ quyết định việc các nền kinh tế đang phục hồi ở châu Á có duy trì được tăng trưởng hay không, hay lại tạo ra các điều kiện kinh tế vĩ mô cho một cuộc khủng hoảng sắp tới trong khu vực.

Trong khi đó, mạng tin Asia Times lại có bài phân tích cho rằng châu Á là đầu tàu trong quá trình phục hồi từ cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua. Hiện giờ, các chính phủ và ngân hàng trung ương cần phải dũng cảm cắt giảm các biện pháp kích thích chi tiêu và những biện pháp khác được áp dụng trong thời kỳ khủng hoảng, nếu không khu vực này sẽ phải đối mặt với nguy cơ lạm phát ngày càng tăng, đặc biệt là về giá lương thực.


 Dự báo lạm phát tại Châu Á tới 2011

Nguồn: Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)

Tính theo phần trăm (%)


 
2005
2006
2007
2008
2009
 2010
2011
TRUNG Á
8,1
 9,0
11,2
16,5
 5,9
6,7
 6,6
ĐÔNG Á
 2,0
 1,6
 3,9
 5,4
 0,0
3,3
 3,0
Trung Quốc
1,8
 1,5
 4,8
 5,9
-0,7
3,6
 3,2
Hàn Quốc
2,8
 2,2
 2,5
 4,7
 2,8
3,0
 3,0
NAM Á
5,3
 5,9
 5,6
 9,3
 5,6
6,0
 6,0
Ấn Độ
4,4
 5,4
 4,8
 8,3
 3,6
5,0
 5,5
ĐÔNG NAM Á
6,2
 7,1
 4,1
 8,8
 2,7
4,5
 4,5
Indonesia
 10,5
13,1
 6,4
 9,8
 5,0
5,6
 6,2
Malaysia
 3,1
 3,6
 2,0
 5,4
 0,6
2,4
 3,0
Philippine
7,6
 6,2
 2,8
 9,3
 3,2
4,7
 4,5
Singapore
0,5
 1,0
 2,1
 6,6
 0,6
2,3
 2,0
Thái Lan
 4,5
 4,7
 2,2
 5,4
-0,9
3,5
 3,0
Việt Nam
8,3
 7,5
 8,3
23,0
 6,9
 10,0
 8,0
THÁI BÌNH DƯƠNG
 2,5
 3,0
 3,6
 9,5
 5,2
5,1
 5,4
TRUNG BÌNH
 3,4
 3,3
 4,4
 6,9
 1,5
4,0
 3,9

(Theo Vitinfo)

  • 10 siêu đại gia Nga trong danh sách đen sẽ bị Mỹ trừng phạt?
  • Liên minh 04 nước đối phó Trung Quốc ở châu Á-TBD?
  • Mỹ - Trung: Đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng 'rút kiếm'
  • Mỹ- Trung và quan hệ 'nước lớn kiểu mới'
  • Trung Quốc chịu “mở cửa” kiểm toán cho Mỹ
  • Thế giới thực sự có bao nhiêu tỷ phú?
  • Kinh tế thế giới bớt u ám nhờ Đông Á
  • Obama và trò chơi 'hai mặt của đồng tiền'
  • Những dự báo lạc quan về kinh tế thế giới
  • Các nước mới nổi và sự đảo chiều của kinh tế thế giới
  • “OPEC khí đốt” vẫn chỉ là truyền thuyết
  • Núi lửa cũng … gây khủng hoảng
  • Vạ lây
  • “Giấc mơ” của BRIC
  • Góc khuất của những “quân cờ”
  • Vì một dòng chảy bền vững