Tin kinh tế, tài chính, đầu tư, chứng khoán,tiêu dùng

Lực lượng lao động nữ: Giữa quyền kinh tế và làm mẹ

Nếu sự trao quyền kinh tế cho phụ nữ là một trong những thay đổi lớn nhất của 50 năm qua thì giải quyết những hệ quả xã hội của nó sẽ là một trong những thách thức lớn lao của 50 năm tới.

Khi người mẹ đi làm, xáo trộn trong đời sống gia đình không chỉ là vấn đề của gia đình, mà có khi là của xã hội. Ảnh: Reuters

Phụ nữ được trao quyền kinh tế là một trong những cuộc cách mạng đáng chú ý nhất trong 50 năm qua do tầm ảnh hưởng lớn và mức độ tác động lớn đến đời sống xã hội khi phụ nữ tham gia lực lượng lao động ngày càng nhiều.

Gần phân nửa lực lượng lao động

Phụ nữ ngày nay chiếm gần phân nửa lực lượng lao động Mỹ (49,9%, theo số liệu thống kê hồi tháng 10), điều hành một số công ty lớn như PepsiCo, Archer Daniels Midland và W.L.Gore. Phụ nữ chiếm khoảng 60% số lượng tốt nghiệp đại học ở châu Mỹ và châu Âu. Tại các khu vực có thành kiến lâu dài với phái nữ, như các nước Địa Trung Hải, cũng có sự biến chuyển nhanh. Ở Tây Ban Nha tỷ lệ phụ nữ trẻ đi làm bằng ở Mỹ.

Khi sức lực cơ bắp cần hơn trí tuệ, nam giới chiếm ưu thế. Giờ đây khi lao động trí óc thắng thế, cả hai phái tham gia ngang bằng hơn. Thậm chí, phái nữ còn trội hơn ở khu vực dịch vụ. Phụ nữ chỉ chậm hơn nam giới trong một vài lĩnh vực, như là cơ khí và khoa học máy tính.

Công nghệ tiên tiến cũng giảm bớt thời gian dành cho nấu nướng lau chùi. Nhưng sáng kiến quan trọng nhất là thuốc ngừa thai: giúp phụ nữ không chỉ có thể lập gia đình trễ hơn, do vậy, có thêm thời gian để học tiếp.

Việc mở rộng giáo dục cao hơn cũng tăng triển vọng việc làm cho phụ nữ, cải thiện giá trị của họ trên thị trường lao động, tạo nên sự chuyển đổi từ vai trò người mẹ ở nhà thành phụ nữ năng động trong công việc. Năm 1963, 62% nữ sinh tốt nghiệp đại học ở Mỹ tham gia lực lượng lao động, so với 46% số người có bằng phổ thông. Ngày nay 80% phụ nữ Mỹ tốt nghiệp đại học đi làm so với 67% những người chỉ tốt nghiệp trung học. Vào năm 2011, số lượng phụ nữ Mỹ ở bậc đại học nhiều hơn nam là 2,6 triệu.

Theo một cuộc khảo sát của tổ chức Rockefeller/Time, 3/4 số người Mỹ xem cuộc cách mạng này là một phát triển tích cực. Chín trong số mười nam giới được hỏi tỏ ra thoải mái khi phụ nữ kiếm tiền nhiều hơn. Điều gây ngạc nhiên nhất là ít phụ nữ tán thưởng công khai. Một phần vì phụ nữ trẻ xem cơ hội của họ là dĩ nhiên. Một phần vì nhiều phụ nữ chú trọng đáp ứng nhu cầu kinh tế hơn là tự do.

Vẫn cách biệt về lương

Tuy phụ nữ chiếm một nửa trong lực lượng lao động, nhưng các vị trí quản lý vẫn chưa thể hiện rõ xu hướng này. Phụ nữ chiếm chưa đến 13% số thành viên ban quản trị ở Mỹ. Những cấp bậc cao hơn như cố vấn quản lý và ngân hàng do nam giới nắm giữ. Ở Mỹ và Anh công nhân nữ làm việc toàn thời gian chỉ kiếm khoảng 80% so với công việc tương tự của nam. Ở Ý và Nhật, tỷ lệ có việc làm của nam giới cao hơn nữ 20%. Ở Ý, cho dù tỷ lệ nữ có việc làm đã tăng đáng kể trong thập niên qua, vẫn còn dưới 50% và thấp hơn 20% so với Đan Mạch và Thuỵ Điển. Trung bình phụ nữ thu nhập thấp hơn nam giới nhiều và nếu ở vị trí lãnh đạo cũng bị đánh giá thấp hơn nam giới.

Ngoài lý do tồn tại thành kiến, lý do lớn nhất, theo các chuyên gia phân tích, phụ nữ buộc phải chọn lựa giữa làm mẹ và làm việc. Phụ nữ không có con ở Mỹ thu nhập gần bằng nam giới. Những bà mẹ sống cùng bạn đời kiếm ít hơn và những bà mẹ đơn thân thì ít hơn nhiều. Cái giá của bổn phận làm mẹ không hợp lý với những phụ nữ thăng tiến sự nghiệp. Ở các công ty lớn, tiền lương rất cao và đòi hỏi rất nhiều thời gian. Do vậy, nhiều phụ nữ đi làm từ chối làm mẹ: 40% số phụ nữ Thuỵ Sĩ không có con, những người khác trì hoãn mang thai lâu đến mức họ buộc phải thụ tinh nhân tạo. Theo một nghiên cứu trên số sinh viên tốt nghiệp khoa kinh doanh đại học Chicago, 10 đến 16 năm sau khi tốt nghiệp, chỉ hơn 1/2 số người chọn có con còn làm việc toàn thời gian, khoảng 3/4 làm việc bán thời gian và dưới 1/4 rời khỏi lực lượng lao động. Theo một nghiên cứu khác của Mỹ về số phụ nữ nghỉ việc để có con, chỉ có 7% trong số đó muốn quay lại làm việc, 74% sắp xếp trở lại và chỉ 40% trở lại làm việc toàn thời gian.

Cần chính sách lao động mới

Sự kết hợp giữa một lực lượng lao động đang già đi và một nền kinh tế phụ thuộc nhiều hơn vào kỹ năng, có nghĩa là các quốc gia sẽ phải sử dụng lực lượng nữ tốt hơn. Tập đoàn Goldman Sachs ước tính, sự tham gia ngày càng tăng của phụ nữ trên thị trường lao động vốn của nam giới sẽ thúc đẩy tăng GDP khoảng 21% ở Ý, 19% ở Tây Ban Nha, 16% ở Nhật, 9% ở Mỹ, Pháp và Đức, và 8% ở Anh.

Nhiều nước xây dựng chính sách để không đánh mất tài năng nữ và tìm cách giải quyết khó khăn khi phụ nữ kết hợp làm việc với chăm sóc con. Ở Đức hiện nay có 1.600 trường có giờ học kéo dài cho đến giữa trưa. Một số trường học được ưa thích nhất ở Mỹ yêu cầu ngày học dài hơn và thời gian nghỉ hè ngắn hơn. Những quốc gia Scandinavia, nhất là Iceland, thêm một cách thức mới là khuyến khích người cha dành nhiều thời gian chăm sóc con hơn.

Hơn 90% công ty ở Đức và Thuỵ Điển cho phép làm việc linh động. John Lewis cho những nhân viên đã làm việc 25 năm được nghỉ phép sáu tháng có lương. Nhờ vậy, những năm tháng nuôi con sẽ chiếm tỷ lệ nhỏ hơn trong đời sống làm việc của phụ nữ.

Thay đổi nào cho dù ôn hoà cũng có thể gây rắc rối vào phút cuối. Sắp xếp xã hội không theo kịp thay đổi kinh tế. Cuộc sống nhiều đứa trẻ phải trả giá dù ngày càng nhiều gia đình có hai nguồn thu nhập. 60% cha mẹ ở Anh và 74% cha mẹ ở Mỹ cho biết họ không có đủ thời gian cho con.

(Theo Võ Phương // SGTT Online // Economist)

  • 10 siêu đại gia Nga trong danh sách đen sẽ bị Mỹ trừng phạt?
  • Liên minh 04 nước đối phó Trung Quốc ở châu Á-TBD?
  • Mỹ - Trung: Đối thủ tiềm ẩn, sẵn sàng 'rút kiếm'
  • Mỹ- Trung và quan hệ 'nước lớn kiểu mới'
  • Trung Quốc chịu “mở cửa” kiểm toán cho Mỹ
  • Thế giới thực sự có bao nhiêu tỷ phú?
  • Kinh tế thế giới bớt u ám nhờ Đông Á
  • Obama và trò chơi 'hai mặt của đồng tiền'
  • Mỹ đang ngủ quên trước một Trung Quốc tỉnh táo
  • Khi Internet “núp bóng” nhân quyền
  • Những biến đổi của bản đồ kinh tế thế giới
  • Sau Hy Lạp, thế giới đứng trước nguy cơ khủng hoảng nợ mới ?
  • Thu nhập bình quân của phụ nữ chỉ bằng 87% nam giới
  • Khi các quốc gia sản xuất dầu lửa ra “yêu sách”
  • Tham nhũng ở Trung Quốc làm khó doanh nhân phương Tây
  • Những vụ bê bối tình dục được bàn tán nhiều nhất