Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp (DN) chuyên nhập khẩu, kinh doanh thức ăn chăn nuôi (TACN) phải ngừng sản xuất do bị thua lỗ. Các đơn vị này đã ồ ạt nhập hàng về lúc giá cao ngất ngưởng, đến nay, giá nguyên liệu giảm chỉ còn một nửa, hàng chưa về đến Việt Nam đã biết lỗ nặng. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của PV báo Hànộimới thì DN lỗ nặng chủ yếu là DN nhỏ, làm ăn thời vụ, còn các DN lớn thì hầu hết đứng ngoài cuộc.
"Chết" vì bạo gan "ôm" nguyên liệu
Ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam cho biết, lãi suất ngân hàng cao (hồi tháng 8-2008) và sự sụt giảm đột ngột của giá nguyên liệu khiến cho các DN sản xuất TACN không chịu đựng nổi. Tháng 7-8 và nửa đầu tháng 9, khi giá khô dầu đậu tương thế giới lên 550 USD/tấn, nhiều DN tính toán giá sẽ còn lên cao nữa nên hối hả nhập về với khối lượng lớn. Song từ cuối tháng 10, giá khô dầu chỉ còn 360 USD, nay chỉ còn 300 USD, thậm chí 280 USD/tấn, dẫn đến tồn kho ước khoảng 20.000-30.000 tấn (khoảng 16 triệu USD, thời điểm giá cao nhất). Hơn nữa, do nhập khẩu và dự trữ nguyên liệu với giá cao đỉnh điểm hồi tháng 8, các DN này không thể giảm giá bán TACN (do nguyên liệu chiếm 70% giá trị thành phẩm). Ngoài khô dầu đậu tương, một số nguyên liệu khác cũng giảm giá mạnh: ngô giảm từ 5.200 đồng xuống còn 2.800 đồng/kg; bột cá từ 19.000 đồng xuống 13.000 đồng/kg... Số nguyên liệu này được nhập từ Ác-hen-ti-na, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Pê-ru... và trong tháng 12-2008, tháng 1-2009, hầu hết số hàng này sẽ về tới Việt Nam. Với vụ thua nặng về giá này, mỗi DN nhập khẩu nguyên liệu TACN đã bị thua lỗ khoảng vài chục tỷ đồng. Đến nay đã có khoảng 80% doanh nghiệp TACN bị thua lỗ, 36 DN đã phải tạm ngưng hoạt động. TACN bán chậm, sắn không tiêu thụ được, phẩm chất giảm càng khó bán hơn.
Mặc dù hiện nay, ngành chăn nuôi đang khôi phục mạnh do giá TACN đã hạ từ 15-20% so thời kỳ cao điểm nhưng với mức giá này vẫn là cao trên thế giới. Theo anh Nguyễn Văn Chiến, HTX Dịch vụ chăn nuôi Cổ Đông - Sơn Tây, thị trường TACN sôi động trở lại nhanh hay chậm, phụ thuộc rất lớn vào động thái giảm giá của các DN. Nếu các DN không cắn răng chịu lỗ do những nhận định sai lầm của mình về thị trường mà quyết tâm giữ giá hoặc hạ nhỏ giọt thì tình hình sẽ khó được giải quyết trong quý I năm 2009.
Đại gia vẫn "sống khỏe"
Điều đáng nói là các DN thua lỗ nặng trong thương vụ mua bán vừa qua đều là DN Việt Nam 100%. Còn các "đại gia" trong ngành TACN, có nguồn vốn nước ngoài vẫn đang tiếp tục trụ vững nhờ chủ động được vốn cũng như nguồn nguyên liệu.
Ông Suwes Wang RunGaRun, Phó Tổng Giám đốc Công ty Charoen Pokphand Việt Nam (CP. Group) cho biết, Công ty đầu tư dây chuyền sản xuất TACN gia súc, gia cầm vào Việt Nam từ năm 1993, khi đó Việt Nam chưa có ngành chế biến TACN công nghiệp. Hiện tại, tổng số vốn của Công ty đã lên tới trên 350 triệu USD và máy móc hoàn toàn được nhập từ các nước tiên tiến nhất, mỗi năm sản lượng TACN gia súc, gia cầm của Công ty đạt 2 triệu tấn; thức ăn cho thủy sản là 500 nghìn tấn bảo đảm cung cấp cho tất cả các đại lý nuôi gia súc, gia cầm cho Công ty. Nhờ nhận định được những biến động của thị trường, Công ty đã có chuẩn bị trước về nguyên vật liệu ngay từ đầu năm 2008, nên đã duy trì được hoạt động sản xuất đều đặn, khi giá nguyên liệu TACN trên thế giới leo thang thì DN đứng ngoài cuộc. Đặc biệt, trong thời gian qua, mặc dù có nhiều biến động về tài chính, lãi suất ngân hàng tăng cao, giá thức ăn cao, thiên tai diễn ra, nhiều DN và các hộ chăn nuôi phải bỏ chuồng, song những người chăn nuôi cho Công ty CP. Group không phải băn khoăn, lo lắng bởi Công ty đã đầu tư từ con giống, thức ăn, kỹ thuật và thuốc thú y. Không những thế, nếu xảy ra dịch bệnh, Công ty hoàn toàn chịu trách nhiệm, người chăn nuôi chỉ việc nuôi theo đúng quy trình của Công ty.
Rõ ràng trong chuyện này, các DN thua lỗ đều là do dự đoán thông tin thị trường kém, làm ăn theo kiểu mạnh ai nấy "chạy". Hơn nữa, lâu nay các DN Việt Nam chỉ quan tâm đến giá cả xuất khẩu mà ít để ý đến giá nhập khẩu. Đây là sự sàng lọc tự nhiên. DN nào làm ăn theo lối chụp giật, tự khắc sẽ bị đào thải.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Trong bảng xếp hạng toàn cầu về triển vọng phát triển kinh tế được công bố ngày 5/1, Tập đoàn Quốc tế Grant Thornton đánh giá Việt Nam đứng thứ 7 về mức độ lạc quan trong 12 tháng tới trong tổng số 36 nền kinh tế được khảo sát.
Khủng hoảng tín dụng thế chấp ở Mỹ đã lan nhanh từ khu vực tài chính sang khu vực kinh tế thực và từ nước Mỹ ra toàn cầu, với sức tàn phá khủng khiếp. Kinh tế thế giới đang suy giảm mạnh, nhiều ngành kinh tế chủ chốt đang có nguy cơ sụp đổ. Kinh tế Việt Nam dựa chủ yếu vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài đang đứng trước thử thách to lớn.
Ngày 5-1, tại Đà Nẵng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Đại học Tokyo phối hợp với Trung tâm Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương Đà Nẵng (VAPEC) tổ chức Hội thảo “Quan hệ giữa Nhật Bản với các nước Myanmar, Thái Lan, Lào và Việt Nam và hợp tác phát triển Hành lang kinh tế Đông-Tây (EWEC)”.
Song hành với các diễn trình tạo dựng thương hiệu quốc gia của nhiều nước trên thế giới là việc triển khai “quản lý quan hệ công dân” và “quyền lực mềm”.
Hãng thông tấn Đức DPA vừa có bài tổng kết tình hình kinh tế Việt Nam năm 2008, nêu bật thành công của Việt Nam trong việc hóa giải nguy cơ khủng hoảng tài chính đến từ nạn lạm phát phi mã, nhưng đồng thời cũng cảnh báo những tác động không thể tránh khỏi từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Chúng tôi xin trích dịch giới thiệu cùng bạn đọc.
Ngày 12/1 tại Hà Nội, Viện Khoa học Tài chính và Viện phát triển Hàn Quốc phối hợp tổ chức hội thảo khoa học "Chính sách, giải pháp bảo đảm cho kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững trong giai đoạn hiện nay" với sự tham gia của các chuyên gia kinh tế hai nước.
Chính phủ nhiều nước kể cả những nước công nghiệp hàng đầu thế giới coi việc chống suy thoái kinh tế như nhiệm vụ quan trọng nhất trong năm 2009, bằng các giải pháp chính sách đồng bộ để cứu thị trường tài chính trong nước, kích thích tiêu dùng và đầu tư vào những ngành kinh tế có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.