Mục tiêu mà Quốc hội đặt ra cho tăng trưởng GDP của kinh tế Việt Nam tnăm 2009 là 6,5%. Nếu trở thành hiện thực, thì tăng trưởng kinh tế 2009 được duy trì so với năm 2008, sau khi đã giảm 2% so năm 2007 (khoảng 6,5% so với 8,5%). Nhưng theo nhận định chung của một số chuyên gia đây là mục tiêu quá lạc quan, và nếu vẫn đạt được thì đó là sự kỳ diệu và có thể phải trả giá đắt.
3 kịch bản cho năm 2009
Ông Lê Đức Thúy, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, đưa ra 3 kịch bản có thể xảy ra của nền kinh tế năm 2009; trong đó, mức tăng trưởng 6,5% trở nên xa vời khi mà mốc 6% đã là một kịch bản lạc quan.
Cụ thể, với kịch bản lạc quan, ông Thúy cho rằng tăng trưởng kinh tế năm 2009 có thể đạt khoảng 6%, lạm phát ở mức dưới 10% và nền kinh tế chấm dứt đà suy giảm, bắt đầu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn từ năm 2010.
“Đó là kịch bản chúng tôi coi là khó đạt được, cũng có thể đạt được nhưng chưa chắc đã cần phải trả giá để đạt được”, ông Thúy nói.
Trong khi kịch bản mà ông đánh giá tương đối hiện thực là tăng trưởng sẽ đạt khoảng 5%, lạm phát ở dưới mức 10%, có thể khoảng 6 - 8%. Với kịch bản này, nền kinh tế có thể chỉ tăng trưởng ở mức tương tự sau năm 2009, nhưng những cơ sở cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững hơn được củng cố để có bước bứt phá từ năm 2011.
“Theo tôi, nên theo đuổi kịch bản hai. Tăng trưởng khoảng 5%, giữ lạm phát khoảng 6 - 8%, nếu được 6% là tốt, để ổn định vĩ mô tốt hơn và tập trung nguồn lực gia cố những nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững mà lâu này chúng ta chưa gia cố được”, Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia khuyến nghị. “Đừng có vì tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn mà phải trả giá đắt để rồi cứ ì ạch như vậy mà không thể cất cánh”.
Ngoài hai khả năng trên, người nguyên là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng đề cập đến một kịch bản xấu mà Việt Nam không thể loại trừ, phải lường tính trước nếu Chính phủ không có những chính sách khôn ngoan.
Cụ thể, với kịch bản này thì tăng trưởng kinh tế năm 2009 có thể chỉ đạt khoảng 4%, trong khi lạm phát lại lên trên 10% và nền kinh tế đình đốn kéo dài.
Điểm mà ông Thúy lo ngại là nếu lạm phát khoảng 10% trở lên sẽ tiếp tục kéo theo những bất ổn vĩ mô khó có thể khắc phục. Hệ quả là nền kinh tế khó có thể có được bước đột phá cho thập kỷ tới.
Có tin cậy các báo cáo ngoại?
Theo tập hợp của TS. Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc phụ trách nghiên cứu Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, trong các báo cáo của các tổ chức quốc tế về tăng trưởng kinh tế kinh tế Việt Nam năm 2009 chỉ có duy nhất một tổ chức có cùng dự báo 6,5% là Ngân hàng Thế giới (WB); còn lại hầu hết cao nhất là 5,2%, thậm chí có những dự báo bi quan.
Cụ thể, trong báo cáo mới đây, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo ở mức 5%, tương tự như mức dự báo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và BMI. Cao hơn, Tập đoàn Citigroup đưa ra dự báo 5,2%. Các tổ chức khác như Economist Intelligence Unit, Deutsche Bank, CLSA lần lượt là 4,3%, 4,1% và 2,6%.
Về những dự báo này, theo chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành, “kinh nghiệm cho thấy họ thường đánh giá sai, chưa chắc đã đúng và cần phải xem xét lại”.
TS. Vũ Thành Tự Anh cũng cho rằng cần đặt hoài nghi đối với những dự báo của các tổ chức nước ngoài và những báo cáo đó đều có thể thay đổi, điều chỉnh.
“Tuy nhiên, khi tất cả các dự báo đều cùng chỉ một hướng thì chúng ta phải thực sự ngồi lại để xem tại sao lại như vậy. Nếu như chỉ là 1, 2 báo cáo nói tăng trưởng của Việt Nam thấp thì không sao, có thể không quá lo ngại, nhưng khi một loạt tổ chức quốc tế và trong nước đều đưa ra dự báo mức tăng trưởng thấp hơn 6,5% thì chúng ta phải đặc biệt lo ngại”, ông Tự Anh nói.
Và theo ông, nếu năm 2009 tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt được 6% đã là một thành tích thần kỳ.
Trở lại với mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5% và kiềm chế lạm phát tăng dưới 15% mà Quốc hội đặt ra cho năm 2009, một số ý kiến cho rằng đến thời điểm này tình thế đã có nhiều thay đổi và cần đánh giá lại.
Theo ông Lê Đức Thúy, chính sách kiềm chế lạm phát không còn là mục tiêu ưu tiên nữa; thay vào đó là phải chuyển hướng ưu tiên ngăn chặn sự cộng hưởng giữa suy giảm kinh tế trong nước với những tác động xấu của khủng hoảng kinh tế thế giới, củng cố các yếu tố cần cho tăng trưởng nhanh và bền vững trong tương lai.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Gói 6 tỉ USD gồm cả kích cầu từ chính sách và tiền tệ. Gói 1 tỉ USD sẽ hỗ trợ lãi suất trong năm 2009 để các ngân hàng bù lãi cho đối tượng cần hỗ trợ. Chỉ số lạm phát của năm ở mức 19.9%. Chính phủ cũng đồng ý cho Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng lên 3% từ hôm nay ngày 25/12.
Với vị trí xếp hạng thứ 9 trên thế giới về xuất khẩu và được đánh giá là thị trường có tốc độ tăng trưởng cao, ngành dệt may Việt Nam nhiều khả năng sẽ lọt vào top 5 vào năm 2010. Tuy nhiên, ở thị trường nội địa, các doanh nghiệp dệt may trong nước lại dường như “đuối sức” trong việc xây dựng hình ảnh thương hiệu, cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Thời hạn ngày 1/1/2009 đã gần kề, vì vậy mà các doanh nghiệp không khỏi lo lắng khi ngành thời trang trong nước vốn đã gặp nhiều khó khăn tại thị trường nội địa nay lại càng khó hơn khi “cơn lốc” hàng hiệu tràn vào.
Tại Hội thảo “Kịch bản kinh tế Việt Nam 2009”, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển đã thử phác hoạ bức tranh thương mại của Việt Nam sẽ như thế nào trong những năm tới.
Trung tâm nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp TP.HCM vừa tổ chức tổ chức hội thảo "Thị trường bán lẻ, giờ G và giải pháp". Thời điểm để nước ta mở rộng cửa cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài chỉ được tính bằng ngày, trong khi các doanh nghiệp bán lẻ trong nước vẫn còn nhiều hạn chế về vốn,
Làm gì để “gỡ rối” cho hơn 350.000 doanh nghiệp này chính là chủ đề mà các nhà lãnh đạo và chuyên gia kinh tế trong nước ngồi lại thảo luận và đưa ra giải pháp vào sáng 18/12 tại Đà Nẵng.
Kể từ 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ mở cửa, song cho đến nay các nhà quản lý vẫn chưa xác định cụ thể những tiêu chí, khái niệm liên quan đến bán lẻ, doanh nghiệp (DN) cũng theo đó mà… lúng túng.
“Không có sự liên kết với nhau chính là một hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam, đã khiến cho các doanh nghiệp như những chiếc đũa đơn lẻ, mỏng manh, rất dễ bị bẻ gãy khi bước vào hội nhập”, chuyên gia kinh tế cao cấp Phạm Chi Lan đã đưa ra nhìn nhận này trong cuộc hội thảo về môi trường thương mại Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO tại Hà Nội mới đây.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lần này có sức lan tỏa nhanh và mạnh, theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.Suy thoái kinh tế thế giới tác động đến Việt Nam đầu tiên là khu vực xuất khẩu và đầu tư, qua đó sẽ ảnh hưởng đến cân đối vĩ mô. Bài toán đặt ra cho Việt Nam lúc này là gì? Các chuyên gia kinh tế đã có những nhận định và đưa ra các giải pháp tại hội thảo kịch bản kinh tế Việt Nam năm 2009 diễn ra sáng 22-12, tại TP.HCM.
“Thiếu một đại diện chủ sở hữu tập trung, duy nhất, chuyên nghiệp thì các DNNN không chỉ lâm vào cảnh oái oăm “lắm cha con khó lấy chồng” mà còn tiếp tục phải đối mặt với thực trạng đã kéo dài và gần như mạn tính là “cha chung không ai khóc””.
“Quy định về doanh nghiệp nhà nước tại Dự thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi (lần 4) là một bước lùi so với Dự thảo (lần 1). Bởi trước đó, Dự thảo Luật đã nêu rất rõ quan điểm cần phải có một cơ quan quản lý độc lập, tách bạch chức năng quản lý nhà nước ra khỏi công việc quản lý kinh doanh và không để cơ chế chủ quản như hiện nay.”
Nhà đàm phán sắc sảo về WTO đã 72 tuổi, là cố vấn của đoàn đàm phán các hiệp định TPP và EU sáng nay dậy sớm, mặc quần “lửng” ngắn xuống phòng internet khách sạn ngồi kiểm tra email.
Môi trường kinh doanh kém, Việt Nam mất thu nhập 7.000 USD, thất thu thương mại 37 tỷ USD vì thủ tục xuất nhập khẩu, 7 tháng CPI mới chỉ tăng 1,62%, nửa đầu tháng 7 tiếp tục nhập siêu 260 triệu USD ..
Với sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 cùng tham vọng và thực lực của Trung Quốc cũng như những tuyên bố bất chấp dư luận quốc tế của giới lãnh đạo nước này trong thời gian qua đã đặt Việt Nam trước việc phải chấp nhận một thực tế là trong giai đoạn tới, đất nước sẽ phải phát triển kinh tế trong điều kiện không có có môi trường hoàn toàn thuận lợi do những lo ngại về bất ổn.
Việc tách bạch chức năng vừa quản lý nhà nước vừa quản lý doanh nghiệp, hạn chế khả năng chính sách đưa ra bị chi phối bởi lợi ích ngành... là yêu cầu cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Các nước lớn đóng vai trò rất quan trọng trong việc dàn xếp các cuộc xung đột mang tính quốc tế và nhiều khi họ sử dụng các vấn đề của thiên hạ để phục vụ cho những tính toán của riêng mình
Trong bản kết luận thanh tra gửi Thủ tướng, Thanh tra Chính phủ có kiến nghị kiểm điểm cá nhân, tổ chức có liên quan nhưng sai phạm của lãnh đạo VCCI chưa đến mức phải xử lý kỷ luật.
Sau gần 25 năm đổi mới, bộ mặt kinh tế, xã hội Việt Nam đã khác hẳn. So với 10 năm trước, đời sống của dân chúng nói chung hiện nay được cải thiện nhiều, vị trí của Việt Nam trên thế giới cũng tăng lên đáng kể. Rõ ràng ở đây có vấn đề hiệu suất phát triển, có khả năng bỏ lỡ các cơ hội mà nguyên nhân sâu xa nằm ở cơ chế, ở sự chậm hoàn thiện cơ chế thị trường, ở năng lực nắm bắt cơ hội, và việc thực thi các chính sách, vì các điều kiện về bối cảnh khu vực và cơ hội phát triển Việt Nam không bất lợi so với các nước lân cận.
Bàn cờ kinh tế VN bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Các mảnh này thường bị chi phối bởi các nhóm độc quyền và đặc quyền. Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên và gia công trình độ thấp, nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu quả làm chủ đạo.
Việt Nam tăng 18 bậc lên vị trí thứ 71 trong bảng chỉ số về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 vừa được WEF công bố. Trong tổng số 125 nền kinh tế được WEF xem xét năm nay Singapore và Hồng Công tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi cho tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu.
Hiện nay quy mô của các vùng kinh tế trọng điểm (VKTTĐ) đã mở rộng đến gấn 25% diện tích và chiếm khoảng 70% thu nhập kinh tế của cả nước. Một vấn đề đặt ra là: quan điểm ngày càng mở rộng quy mô diện tích của các VKTTĐ của Việt Nam có hợp lý hay không? Làm thế nào để các VKTTĐ phải thực sự là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế của cả nước ,có một thế đứng vững chắc trong tương lai nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững quốc gia.
Ngày 17-5, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) đã tổ chức hội thảo tham vấn cho dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2011-2015, với sự tham gia của đại diện các cơ quan quốc tế. Nội dung chủ yếu nêu lên bức tranh toàn cảnh về KT-XH, cùng những vấn đề liên quan khi nước ta bước vào giai đoạn "đệm" chuyển tiếp để cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020.
Bên cạnh những vấn đề quản lý đô thị, trung tâm hành chính quốc gia… thì bài toán kinh tế là băn khoăn lớn nhất khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về đồ án quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, sáng 11/5.
Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập năm 2003, đến nay đã có 14 khu kinh tế biển được thành lập, gồm 2 khu ở đồng bằng sông Hồng, 10 khu ở vùng duyên hải miền Trung và 2 khu ở miền Nam. Theo Quy hoạch phát triển các KKT biển đến năm 2020 cả nước sẽ có 15 khu kinh tế biển với kinh phí đầu tư khoảng 162.000 tỷ đồng và tạo việc làm cho khoảng 500.000 ngàn người.
Tại bài viết mới nhất trên blog của mình, TS. Trần Công Hòa đã phân tích và đưa ra một số khuyến nghị về hoạch định chính sách và điều hành nền kinh tế 2010: tiếp tục giảm giá VND; cắt giảm chi tiêu công; tăng tính độc lập của NHNN; kiên quyết cho phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ; điều chỉnh chính sách thuế ở một số lĩnh vực theo phương thức lũy tiến; phát triển công nghiệp phụ trợ;...
Tăng trưởng luôn luôn là một cuộc trường chinh. Vì vậy, không thể chỉ vì tăng trưởng ngắn hạn mà hy sinh sự ổn định và bền vững trong dài hạn. Cổ nhân ngày xưa có câu “dục tốc bất đạt”, không những thế cái giá phải trả cho kinh tế bất ổn rất lớn, chỉ cần nhìn sang mấy nước xung quanh như Thái Lan, Indonesia hay Philippines là có thể thấy rất rõ điều này.
Cải cách cơ cấu là một đòi hỏi nghiệt ngã đối với tất cả các nước muốn tiến bước trên con đường đi đến phồn vinh. Thế nhưng, có nhiều nước không chủ động vượt qua đòi hỏi này khi tình thế kinh tế còn thuận lợi và thường bắt đầu nó quá muộn khi đất nước đã rơi vào khủng hoảng. Điều này lý giải tại sao nhiều nước có khởi đầu tốt nhưng rồi sa lầy trong cạm bẫy của mức thu nhập trung bình ...
Năm 2009, tăng trưởng GDP đạt 5,32%; lạm phát được kiềm chế dưới 7%; hệ số ICOR là 5, 16. Những con số này có thể cho cảm nhận kinh tế vĩ mô đang ở tình trạng khá ổn định. Tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, bất bình đẳng giầu nghèo tăng, chậm được khắc phục,...
Nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày một trở nên phức tạp hơn, với các cơ chế, thị trường, tổ chức và lực lượng kinh tế mới ra đời trong suốt hơn hai thập niên đổi mới. Sự gấp gáp của cuộc đua tranh kinh tế được nhân lên bằng hành trình hội nhập, trong đó Việt Nam là thành viên mới của WTO.